Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012

Người Việt chinh phục đại dương - Kỳ 5: Thủy quân triều Nguyễn


Thứ Tư, 01/02/2012, 06:14 (GMT+7)

TT - “Chắc chắn rằng người An Nam phải là những kỹ thuật gia về thủy quân và công trình của họ có một vẻ đẹp khéo léo. Tôi bị ấn tượng rất mạnh bởi ngành này ...”. Từ đầu thế kỷ 19, thuyền trưởng người Mỹ John White đã thốt lên khi thăm các xưởng đóng tàu hải quân nhà Nguyễn.
Một chiến thuyền nhỏ của thủy quân nhà Nguyễn - Ảnh tư liệu
Những xưởng đóng tàu chiến
Từ biển Vũng Tàu, tôi vào Sài Gòn theo hải trình qua cửa biển Cần Giờ mà tàu Franklin xưa của John White đã đi. Hai trăm năm trôi qua, bến bờ hoang sơ mà viên thuyền trưởng người Mỹ từng mô tả đã đổi thay nhiều, nhưng cặp mắt hàng hải của ông vẫn nhìn đến thời nay khi nó vẫn là thủy lộ huyết mạch nối thế giới bên ngoài với cảng Sài Gòn.
Trong hồi ký Chuyến đi đến “Nam Hà”, John White kể ông đến Sài Gòn vào tháng 10-1819 và rất thích thú các xưởng đóng tàu: “Về phía đông bắc, trên bờ sông sâu, người ta thấy một công trường xây dựng và một xưởng đóng tàu thủy quân. Tại xưởng này, thời loạn lạc, người ta đã đóng những chiếc thuyền chiến to lớn có nhiều buồm ...
Chỗ đóng tàu này đã tạo danh dự cho người An Nam hơn bất cứ cái gì hiện có trong xứ sở họ. Nó có thể cạnh tranh với những xưởng đóng tàu tốt nhất của châu Âu ... Xưởng đầy ắp vật liệu có phẩm chất tuyệt vời để đóng nhiều hộ tống hạm. Các thứ gỗ để đóng tàu và những lớp vỏ lòng tàu đều là những thứ đẹp nhất mà tôi chưa bao giờ được thấy ...”.
Bị thu hút bởi xưởng đóng tàu thủy quân, John White liệt kê: “Có khoảng 150 chiếc thuyền chiến được đóng rất tốt nằm dưới các nhà chái... Có một vài chiếc được trang bị đến 16 khẩu đại bác bắn đạn nặng ba cân Anh. Nhiều chiếc khác được trang bị từ bốn đến sáu canông bắn đạn nặng từ 4-12 cân Anh. Tất cả đều bằng đồng và đúc rất đẹp.
Ngoài ra còn có độ 40 thuyền chiến đang neo đậu trên sông, chuẩn bị tham gia một chuyến tuần thám bất ngờ mà quan tổng trấn sẽ thực hiện ở miền thượng lưu con sông, ngay lúc ông từ Huế trở về... Chắc chắn người An Nam phải là những kỹ thuật gia về hải quân và công trình của họ có một vẻ đẹp khéo léo. Tôi bị ấn tượng rất mạnh bởi ngành này của nền kinh tế chính trị của họ, nên tôi đã đến thăm viếng xưởng đóng tàu rất nhiều lần ...”.
Thời điểm năm 1819, những gì John White quan sát là kết quả chiến lược phát triển hải quân hùng mạnh của Nguyễn Ánh để bảo vệ bờ cõi, chủ quyền biển đất nước.
Đến nước Việt sớm hơn John White, nam tước John Barrow, người Anh đi biển lừng danh đã sáng lập Hội Địa lý hoàng gia, tường thuật tỉ mỉ nỗ lực của Nguyễn Ánh xây dựng các hạm đội hùng mạnh.
Trong du ký A voyage to Cochinchina in the years 1792 - 1793 (Một chuyến du hành tới Nam Hà trong các năm 1792 - 1793), John Barrow kể rằng: “Ông (Nguyễn Ánh - PV) đặc biệt lưu ý về những gì liên quan đến kỹ thuật hàng hải và kỹ nghệ đóng tàu... Để nắm vững kiến thức về thực hành cũng như lý thuyết của kỹ thuật đóng tàu châu Âu, ông đã mua một chiếc tàu Bồ Đào Nha với mục đích chỉ để tháo ra từng bộ phận, từng tấm ván một, rồi tự tay lắp vào một tấm ván mới có hình dáng và kích thước tương tự cái cũ mà ông đã tháo ra, cho tới khi mọi thanh sàn tàu, xà ngang tàu, thanh gỗ khớp nối được thay thế bằng những cái mới, và như vậy con tàu hoàn toàn đổi mới... Nhà vua là người quản đốc các cảng biển và kho quân dụng, thợ cả trong các xưởng đóng tàu, kỹ sư trưởng trong mọi công trình, không có việc gì dự định thực hiện mà không có lời khuyên bảo và chỉ dẫn của ông. Trong việc đóng tàu, không có cái đinh nào được đóng mà không có sự tham vấn ban đầu của ông, không có một khẩu đại bác nào được đưa lên vị trí mà không có lệnh của ông”.
Phải khẳng định John Barrow viết rất cẩn trọng, tham khảo, đối chiếu nhiều nguồn tư liệu khác như từ chính ghi chép của Barysi, cố vấn đắc lực cho Nguyễn Ánh. Nhờ đó, John Barrow chân thực kể về Nguyễn Ánh rằng: “Ông đi đến các xưởng quân dụng hải quân, xem xét những công việc được thực hiện khi ông vắng mặt, cho thuyền chèo quanh các hải cảng, kiểm tra những thuyền chiến. Ông đặc biệt chú ý đến các sở quân cụ, các lò đúc được dựng nên trong các sở binh khí, các cỡ súng đại bác đã được đúc ra theo đủ loại kích cỡ ... Ông dùng bữa ngay ở xưởng đóng tàu, gồm một ít cơm ăn với cá khô. Khi đó vua lại trở dậy, hội kiến với các sĩ quan quân đội và hải quân”.
Hơn hai vạn thủy quân
Chiến lược phát triển hải quân của Nguyễn Ánh đã được John Barrow kể lại kết quả từ chính những gì ông thấy và tư liệu xác thực từ viên thuyền trưởng Barysi, từng là trợ thủ hải quân của Nguyễn Ánh: trong năm 1800, lực lượng hải quân của Nguyễn Ánh đã đến 26.800 người. Trong đó chỉ riêng thợ xưởng hải quân đã có 8.000 người, 8.000 lính trên 100 chiến thuyền chèo tay, 1.200 lính trên chiến thuyền đóng kiểu châu Âu, 1.600 lính phục vụ trên các thuyền mành và 8.000 lính thường trực ở cảng.
Thuyền trưởng Mỹ John White bổ sung số liệu hải quân nhà Nguyễn năm ông ta có mặt ở nước này: “Ở Huế, nhà vua cũng có một đội thuyền chiến và vào năm 1819, 200 chiến thuyền khác có trang bị 14 khẩu thần công đang được đóng. Trong số 200 chiến thuyền này, có khoảng 50 chiếc được trang bị buồm chão bằng buồm dọc và có một phần được đóng theo kiểu châu Âu”.
Đến triều Minh Mạng, bộ sử Đại Nam hội điển sự lệ ghi rõ số lượng tàu thuyền lúc ấy đã phát triển thêm rất nhiều như năm 1828, chỉ riêng ở kinh sư đã có 379 chiếc thuyền định ngạch, còn các tỉnh thành lớn như Gia Định có 105 chiếc, Nam Định 85 chiếc, Nghệ An 40 chiếc, Quảng Nam 40 chiếc, Quảng Ngãi 25 chiếc ...
Những nhà hàng hải nước ngoài cho rằng sự phát triển hải quân nhà Nguyễn đã có bước ngoặt lớn trong thời Nguyễn Ánh. Ngoài tầm nhìn xa trông rộng của vị vua này còn có sự trợ giúp của một số người Pháp.
Nhưng họ cũng thừa nhận thời tổ tiên Nguyễn Ánh đã có hải quân hùng mạnh lập nhiều chiến thắng hiển hách. Trong đó lẫy lừng nhất là trận cửa Eo, Thuận An, năm 1644, chúa Nguyễn Phúc Lan với chiến thuyền nhỏ đánh bại đội tàu chiến Hà Lan. Dù dày dạn kinh nghiệm hải chiến với tàu lớn, pháo hạng nặng, nhưng tàu Hà Lan đã bị nhà Nguyễn vô hiệu hóa bằng chiến thuật áp sát thần tốc của chiến thuyền nhỏ. Một chiến hạm Hà Lan bị đắm tại chỗ, một chiếc cùng đường phải cho nổ kho thuốc súng hủy tàu và chiếc còn lại quay đầu chạy.
Ngoài hải chiến cửa Eo, hải quân nhà Nguyễn cũng nhiều lần gây khiếp vía cho các tàu cướp phá đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan.
QUỐC VIỆT
Tin bài liên quan:
__________
Không chỉ phát triển hải quân để phòng thủ đất nước, người Việt đã từng bôn ba đến các vùng biển xa xôi và ra cả nước ngoài với một chính sách hướng ngoại đầy khát vọng. Họ đã đi biển thế nào?
Kỳ tới: Người Việt xuất ngoại
(Theo TTO)

Thứ Hai, 30 tháng 1, 2012

Người Việt chinh phục đại dương - Kỳ 4: Trong mắt một thuyền trưởng Mỹ

Thứ Ba, 31/01/2012, 09:14 (GMT+7)
Người Việt chinh phục đại dương - Kỳ 4: Trong mắt một thuyền trưởng Mỹ

TT - Những ngày ở Huế, tôi tìm lại dấu vết các nhà hàng hải quốc tế đã từng là chứng nhân trên vùng biển thuộc chủ quyền người Việt từ cách đây hàng thế kỷ. Trong khi hiện vật còn lưu lại về họ quá hiếm hoi thì các bộ sử sách lại ghi chép khá tỉ mỉ.
Trong đó, đặc biệt là các hồi ký, du ký, bài báo do chính họ viết về những hải trình thám hiểm, giao thương đầy thú vị với người Việt. Và một trong số đó là hồi ức của viên trung úy thuyền trưởng người Mỹ John White trên chiếc tàu Franklin.
Một loại thương thuyền linh hoạt do John White vẽ lại - Ảnh tư liệu
Đến vùng biển người Việt
Trong thư phòng bạc màu thời gian, các nhà nghiên cứu Huế Hồ Tấn Phan, Nguyễn Hữu Châu Phan đã không tiếc thời gian lục tìm cho tôi xem tài liệu ghi chép của những nhà hàng hải quốc tế về con đường và kỹ thuật chinh phục biển của người Việt xưa. Điều rất thú vị là không chỉ người Pháp đến từ các chiến thuyền nặng ân oán cả trăm năm với đất nước này, mà nhiều cường quốc hàng hải như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Mỹ đều đã ngược xuôi trên vùng biển Đông của người Việt từ rất sớm.
Quê hương ở tận Massachussetts, trung úy thuyền trưởng John White đã khởi hành từ đầu tháng giêng năm 1819 trên chiếc tàu Franklin qua nhiều vùng biển, hải cảng, kể cả những cuộc chiến đấu với hải tặc Malacca và mãi đến ngày 7-6 mới tới Cap Saint Jacques (Vũng Tàu). Trong hồi ký “Chuyến đi đến Nam Hà” được phát hành năm 1824 ở London, vị thuyền trưởng có cả máu thám hiểm lẫn thương buôn kể rằng: “11 giờ ngày 7 (tháng 6 năm 1819 - PV), chúng tôi đã thấy được Cap Saint Jacques ở phía bắc đông bắc. Mũi này là nơi khởi đầu của một dãy núi chạy dọc theo bờ biển về hướng bắc... Đây chính là vùng đất cao đầu tiên mà người ta nhận thấy được khi đi từ phương Nam lên và nó tạo thành một điểm mốc tuyệt vời cho lối vào con sông Donnai (Đồng Nai - PV) nằm ở phía bắc mũi đó. Chúng tôi đi theo hướng mũi đất ấy... vào được trong một cái vịnh nhỏ hình bán nguyệt có phong cảnh rất đẹp ở dưới chân núi. Xa xa bên trong cái vịnh ấy có làng Vũng Tàu, làng này đã cho vùng biển này tên gọi là Vũng Tàu...”.
John White đã kể tỉ mỉ mình neo tàu ở vùng nước sâu năm sải và chỉ cách làng Vũng Tàu một hải lý. Ông khen đây là nơi đậu tàu an toàn đến tuyệt vời. Mục đích của thuyền trưởng người Mỹ này là vào sâu Sài Gòn qua cửa Cần Giờ để tìm cơ hội buôn bán. Nhưng ông ta đã mất rất nhiều thời gian để thực hiện thủ tục nhập cảnh phức tạp, kể cả phải ngược ra Huế xin phép nhà vua. Tuy nhiên, chính thời gian phải neo chờ và thực hiện hải trình dọc bờ biển ra kinh thành Huế, John White đã được tận mắt chứng kiến và khen ngợi kỹ thuật đóng tàu cùng khả năng đi biển của người Việt.
Những con tàu bản xứ đáng ngưỡng mộ
Hồi ký John White đã miêu tả chân thực khi chiếc Franklin “chạm trán” với thuyền Việt: “Những thuyền bè bản xứ với sự hoạt động lẹ làng của chúng đã làm chúng tôi tràn trề lòng ngưỡng mộ. Chúng đã chở được 5-500 tấn, nhưng những chiếc chở được 15-30 tấn đã thống trị số tàu này. Chúng rất dài, hai đầu thon mảnh và cong lên một cách mạnh dạn ra khỏi mặt nước... Điều này sẽ khiến người ta nghĩ rằng những chiếc thuyền ấy chỉ lấy gió một cách khó khăn. Trường hợp này lại không phải như vậy...”. Miêu tả những chiếc thuyền bản xứ ở vùng biển Vũng Tàu - Cần Giờ, ban đầu viên thuyền trưởng đến từ cường quốc hàng hải Mỹ đã chỉ ra một loạt những cấu tạo như là kỹ thuật đóng tàu riêng của người Việt có vẻ bất bình thường. Nhưng sau đó, chính ông là người đã chứng thực và khen ngợi khả năng vận hành tuyệt vời của chúng.
Đặc biệt, John White cũng không tiếc lời ngợi khen những chiếc thuyền có cấu tạo độc đáo bằng mê tre rất thông dụng là ghe bầu đi buôn hay giống như hải thuyền của các hải đội Hoàng Sa sử dụng: “Chúng tôi rất kinh ngạc thấy rằng có một số chiếc trọng tải quá 50 tấn mà có đáy thuyền làm bằng tấm phên tre... được đan sít sao và gồm có hai phần, mỗi phần tạo thành một bên đáy thuyền nằm dưới cái đai mạn thuyền. Những bộ phận của loại thuyền này dài hơn, mập hơn những bộ phận của loại thuyền khác. Người ta có thể tháo rời ra và ráp chúng lại một cách dễ dàng mà không có gì nguy hiểm. Mặt khác, vì mỗi năm chúng chỉ đi có một chuyến theo đợt gió mùa thuận lợi, mỗi lần dỡ hàng xong thì chúng được tháo rời ra và đem cất giữ để tránh thời tiết xấu. Đáy loại thuyền này cũng như đáy các loại thuyền khác đều có phết loại nhựa dính dầu và vôi, hỗn hợp rất đều, tạo thành một hợp chất dính rất bền, tuyệt đối không thấm nước và chống lại sự tấn công của các loài sâu hà một cách hữu hiệu...”.
Khi mô tả khả năng lướt sóng của những chiếc thuyền mê tre độc đáo này, John White viết: “Những chiếc thuyền ấy rất bền, khi buồm no gió chúng được đẩy nhanh và đi biển rất tốt. Thuyền có hai hoặc ba cánh buồm được cắt rất sắc sảo và được làm rất thích đáng... Những cánh buồm ấy đều làm bằng đệm lát, những cánh buồm của thuyền buôn đều có dây thu buồm xỉn màu đen. Theo nguyên tắc chung ở phương Đông, những mỏ neo đều làm bằng gỗ và chỉ có một chân neo. Những dây néo buồm và dây chão phần lớn làm bằng cây mây và thừng chão bằng xơ dừa, những dây dừa bện rất tốt...”.
Ngược ra miền Trung để gặp gỡ những người thợ đóng thuyền cao niên ở vùng Quảng Ngãi, Quảng Nam, tôi đã đưa hồi ký của John White cho họ đọc để kiểm chứng tính xác thực trong các miêu tả của ông. Thật bất ngờ, gần 200 năm sau, những điều mắt thấy, tay chạm kỹ thuật thuyền bè người Việt của viên thuyền trưởng Mỹ vẫn được người thợ bản xứ truyền đời duy trì. Người thợ cả Nguyễn Tấn Trà, 76 tuổi, ở làng nổi danh với nghề đóng tàu biển Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi, nhận xét: “Gần như toàn bộ các miêu tả của thuyền trưởng người Mỹ về kỹ thuật đóng tàu này đều chính xác. Không chỉ loại thuyền thân cong thuận lướt sóng hay tấm mê tre dễ nhìn thấy, mà ngay cả những cánh buồm đệm lát, dây chão bằng xơ dừa, mỏ neo bằng gỗ lim cũng được ông ta phát hiện chính xác”.
Không giấu vẻ tự hào, ông Trà kể thêm mãi đến những năm giữa thế kỷ 20, thợ làng ông vẫn còn đóng những chiếc ghe đi biển bằng kỹ thuật này. Điều đó chứng tỏ John White đã rất quan tâm và biết khá chính xác kỹ thuật đóng tàu của người Việt. Hồi ký của ông cũng kể đã đem vô số vật lạ của quốc gia này về nhà bảo tàng hàng hải của East - India Martine Society.
QUỐC VIỆT
__________
Không dừng lại ở tàu dân sự, John White và nhiều nhà hàng hải quốc tế khác rất quan tâm đến lực lượng hải quân người Việt. Họ đã bất ngờ khi nhìn thấy những hạm đội của nhà Nguyễn.
Kỳ tới: Những hạm đội hùng mạnh
(Theo TTO)

Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2012

Người Việt chinh phục đại dương - Kỳ 3: Câu chuyện của người thợ cả

Thứ Hai, 30/01/2012, 09:32 (GMT+7)
Người Việt chinh phục đại dương - Kỳ 3: Câu chuyện của người thợ cả

TT - Khi đi tìm lại kỹ thuật đóng những chiếc thuyền buồm một thuở lừng danh của hải đội Hoàng Sa, tôi may mắn gặp được nhiều bậc cao niên vẫn nắm vững kỹ thuật đóng loại thuyền này. Thậm chí có những bác thợ cả còn tự hào kể đời mình đã từng đóng được ít nhất vài chục chiếc mãi đến những năm 1950 của thế kỷ 20...
Hải thuyền Hoàng Sa được phục dựng - Ảnh: Q.V.
Mê tre, sự sáng tạo Việt độc đáo
Lý Sơn, mùa biển này hay nổi dông gió, nhưng các ngư dân quả cảm vẫn đang ra khơi. Họ là thế hệ trẻ trên hòn đảo quê hương hải đội Hoàng Sa đã chuyển sang sử dụng tàu máy, còn trước đó cha ông họ vẫn cưỡi trên đầu sóng ngọn gió bằng loại ghe câu chạy buồm mà tổ tiên họ từ hàng trăm năm trước đã sử dụng. Ông Võ Hiển Đạt kể khi được tỉnh Quảng Ngãi giao phục dựng chiếc ghe câu một thời, ông hào hứng nhận ngay mà không chút băn khoăn. Những người ở tuổi 80 như ông trên đảo đều biết rõ, thậm chí nhiều người từng tự tay đóng hoặc đi biển trên những chiếc ghe đó. “Không sử dụng nhiều gỗ như bây giờ vì phần thân dưới ghe là mê tre, nhưng người thợ đóng loại ghe đó phải biết dựng nên khung sườn gỗ chắc chắn để kết hợp với độ dẻo dai của tre mà chống chịu bão gió trên biển ...” - ông Đạt kể phải mất khoảng 150 ngày công mới hoàn thành chiếc ghe lịch sử này dù chỉ là mô hình thu nhỏ. Tất cả chi tiết đều làm bằng tay, chi tiết càng nhỏ càng đòi hỏi khéo tay hơn.
Nhờ chỉ dẫn của các ngư dân lớn tuổi, tôi đi tìm người thợ cả Nguyễn Tấn Trà, 76 tuổi, ở xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi đã từng đóng cả trăm chiếc ghe. 60 năm tuổi nghề, ông là hậu duệ của dòng họ có ít nhất sáu đời đã đóng ghe câu. Tiếp nối nghề này mãi đến năm 1968 ông mới chuyển qua đóng tàu máy. Những ngày ở bến sông Nghĩa Phú, tôi đã mải mê nghe ông Trà ôn lại ký ức gắn liền với loại ghe câu từng ngang dọc Hoàng Sa: “Đời nay có thể nói chiếc ghe câu xưa lạc hậu. Nhưng với những thợ cả đời đóng tàu như chúng tôi thì chiếc ghe đó là cả công trình nghệ thuật, một sự hun đúc kinh nghiệm đi biển bao đời mới có được. Nó như chính con người Việt nhỏ nhắn nhưng không dễ khuất phục, mềm mại nhưng dẻo dai, bền bỉ...”.
Ông Trà tâm sự chỉ riêng tấm mê tre chịu nước dưới ghe cũng thể hiện kinh nghiệm độc đáo của người Việt. Thợ làm mê phải có kinh nghiệm lựa tre già, lóng tốt, không thối gốc, cụt ngọn, sau đó mới chọn đoạn dài đẹp nhất giữa thân. Việc chẻ tre thành từng thanh nan cũng đòi hỏi rất khéo tay. Nan tre phải đạt độ dày và lớn đều nhau để mắt đan liên kết chặt chẽ. Nan tre đan mê ghe không cần ngâm nước trước, nhưng phải phơi đủ vài nắng tươi. Thợ đan phải có kinh nghiệm mới được đan mê ghe để đều tay, xít chặt. Mắt mê cũng không không đan song song hay thẳng đứng với mặt nước mà theo chiều xéo góc để có độ dẻo dai, chống chịu được sóng gió. Mê tre sau khi đan xong được quét phân trâu bò để trét kẽ nan, rồi lại tiếp tục phủ lớp dầu rái (cây rái trên rừng). Theo ông Trà, tấm mê tre có vẻ mỏng manh so với gỗ nhưng dẻo dai, khó gãy. Khi gặp sóng gió có thể lún vào rồi lại căng ra bình thường. Mê tre cũng rẻ tiền, dễ thay sau mỗi hải trình xa xôi, nếu được quét dầu rái cẩn thận có thể bền hơn ba năm.
Ưu điểm lớn nhất của mê tre chính là sự nhẹ nhàng giúp giảm tải ghe. Thường mê tre chỉ nặng bằng 1/5 so với gỗ. Nhờ đó mà chiếc ghe câu hay ghe bầu vận tải của người Việt xưa đã đạt tốc độ rất cao.
Người thợ cả Nguyễn Tấn Trà - Ảnh: Q.V.
Vững chãi trong bão tố
Tự hào về những ghe câu mình từng đóng, ông Trà kể ngoài nghệ thuật dùng mê tre làm bụng ghe, phần khung sườn và các bộ phận khác cũng được hun đúc từ kinh nghiệm bao đời người Việt đi biển. Gỗ quý xưa không thiếu, nhưng việc chọn đúng loại gỗ phù hợp để đóng ghe đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc kỹ thuật hàng hải. Chiếc ghe tốt phải cứng cáp chịu đựng được bão tố, nhưng cũng không được quá nặng nề, chậm chạp. Là một trong những người thợ từng đóng những chiếc ghe câu cuối cùng ở Quảng Ngãi, ông Trà kể: “Tổ tiên đã truyền cho tôi kinh nghiệm chọn loại gỗ cứng nhưng dẻo dai như sao, chò, kiền kiền để đóng phần ghe dưới nước, đặc biệt là xỏ lái trước mũi và “con lươn” chịu lực chính dọc theo đáy ghe”. Chỉ cách đây già nửa thế kỷ, gần như toàn bộ công việc đóng tàu vẫn được làm bằng tay. Tùy cỡ ghe họ có thể đóng mất 200-300 ngày công, đòi hỏi sự khéo tay và kinh nghiệm của thợ.
Thời ông Trà, thợ cả giàu kinh nghiệm chỉ nhìn lượng gỗ có thể tính chính xác mực nước ghe mình đóng. Ghe câu thường gồm khoang đốc phía sau, khoang lòng và khoang mũi. Loại ghe câu nhỏ của đội Hoàng Sa mà về sau vẫn được con cháu họ là ngư dân Lý Sơn sử dụng thì dùng hai hoặc ba cột buồm. Trong đó cột chính (dân đi biển quen gọi là cột lòng) bằng các loại gỗ kiền, lim cao khoảng 9m, cột buồm mũi cao khoảng 7m và cột buồm lái phía sau. Ghe câu thường chỉ dài 11-16m, rộng 2,5-3m và sâu 1,8-2,5m. Thủy thủ đoàn 8-10 người, phù hợp với các tài liệu cổ ghi chép suất đội đi Hoàng Sa được tìm thấy ở Lý Sơn. Từ đảo này họ đi ba ngày ba đêm thì đến Hoàng Sa. Tốc độ chính nhờ sức gió thổi buồm, nhưng ghe vẫn thường được trang bị thêm bốn chèo ngang và một chèo lái.
Để sinh tồn sáu tháng lênh đênh trên biển Hoàng Sa, ghe được trang bị các khạp gỗ đựng gạo, nước, củi để tránh bị vỡ khi gặp sóng gió. Thủy thủ đoàn cũng không thể thiếu khạp dầu rái dự phòng cho trường hợp phải trét sửa ghe dọc đường. Đặc biệt, họ mang theo cả giáo mác cán gỗ để phòng thân. Ngoài gạo, thức ăn thêm của đội Hoàng Sa là cá mú bắt được trên biển và các loại trứng chim, rùa có rất nhiều trên các đảo.
Không rõ hải quân triều đình xưa có dùng nhiều thuyền hải vận lớn để theo đội Hoàng Sa là dân binh
Lý Sơn hay không. Nhưng chắc chắn chiếc ghe câu nhỏ là phương tiện chủ yếu của hải đội Hoàng Sa đã được ghi chép trong sử sách và ký ức con cháu nhiều đời truyền lưu.
QUỐC VIỆT
________________________
Cách đây hàng thế kỷ, nhiều thuyền trưởng của các cường quốc hàng hải từng đến biển Việt Nam. Họ chính là chứng nhân quan trọng cho thấy người Việt đã từng ngang dọc, thực thi chủ quyền biển của mình...
Kỳ tới: Trong mắt một thuyền trưởng Mỹ
(Theo TTO)

Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2012

Người Việt chinh phục đại dương: Kỳ 2: Hải thuyền Hoàng Sa

Chủ Nhật, 29/01/2012, 09:32 (GMT+7)
Người Việt chinh phục đại dương: Kỳ 2: Hải thuyền Hoàng Sa

TT - Nhiều chiến thuyền, tàu buôn nước ngoài đã bị nạn khi qua vùng biển Paracel (Hoàng Sa) trong khi các hải đội triều Nguyễn vẫn thường xuyên ra vào vùng biển này. Thậm chí họ từng cứu hộ tàu nước ngoài bị đắm. Điều đó không chỉ được sử sách nước Việt ghi nhận mà các nhà hàng hải quốc tế, kể cả người Trung Quốc cũng ghi chép rất kỹ. Người Việt đã chinh phục vùng biển nguy hiểm này bằng loại thuyền gì?
Bản vẽ kỹ thuật thuyền buồm và một số vật dụng dùng để đi Hoàng Sa - Ảnh: Kỷ yếu Hoàng Sa
Sự thật thuyền Hoàng Sa
“Tổ tiên đã truyền đời kể cho chúng tôi nghe về những con thuyền từng vượt biển Đông ra quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Thời thơ ấu của tôi ở Lý Sơn, loại thuyền ngược xuôi trên biển cũng không khác xưa. Chúng nhỏ gọn nhưng chắc chắn và rất tiện dụng trên vùng biển có nhiều bãi cát, rạn san hô như Hoàng Sa, Trường Sa...”. Ông đồ già Võ Hiển Đạt ở đảo Lý Sơn tự hào hồi tưởng thuở bao lớp tổ tiên can trường tiến ra biển. Mùa ra khơi năm 2011, ông Đạt bước sang tuổi 81, là trưởng nhóm nghiên cứu, đóng lại chiếc thuyền của những đội hùng binh nước Việt năm xưa sử dụng để chinh phục đại dương. Là bậc cao niên hiếm hoi còn thông thạo chữ nho ở Lý Sơn, ông Đạt cũng từng tiếp cận nhiều tài liệu, thư tịch, sắc phong cổ ở Lý Sơn để hiểu rõ về những con thuyền của tổ tiên mình.
Những buổi chiều ngồi ngắm biển ở cảng Lý Sơn, ông Võ Hiển Đạt đã kể cho tôi nghe nửa đầu thế kỷ 20 dân đảo vẫn còn nghèo lắm. Người đi biển đều sử dụng những chiếc thuyền buồm như tổ tiên mình đã bao đời cưỡi trên đầu sóng ngọn gió. Người đi buôn dùng ghe bầu. Ngư dân có ghe câu nhỏ hơn. Hai loại thuyền đôi nét khác nhau về kích cỡ, nhưng đều vượt biển giống nhau nhờ sức gió thổi buồm và khả năng xoay xở rất tốt ở những vùng biển nông dễ mắc cạn.
Khi phục dựng lại thuyền đi Hoàng Sa thuở xưa, ông Đạt đã cẩn thận gặp thêm nhiều bậc cao niên ở Lý Sơn để cùng bàn bạc chính xác loại thuyền. Thật ra ông và các bạn vẫn nhớ rõ đến nửa đầu thế kỷ 20, ngư dân ở Lý Sơn và dọc bờ biển Quảng Ngãi vẫn truyền đời đi biển bằng loại thuyền này. Họ gọi dân dã là ghe câu. Đây cũng là tên thuyền thông dụng mà tổ tiên họ ngày xưa đã sử dụng để vượt biển ra Hoàng Sa. Ngoài ra, một cơ sở khác để họ có thể phục dựng chính xác loại thuyền này chính là hình mẫu chiếc thuyền cúng trong lễ khao lề thế lính Hoàng Sa. Ngay thời hải đội Hoàng Sa còn hoạt động, lễ cúng này đã được thực hiện để yên lòng người ra đi vì Tổ quốc và hình mẫu chiếc thuyền buồm trong lễ cúng vẫn được truyền đời thực hiện đến ngày nay.
Đặc biệt, các sử gia uy tín xưa cũng khẳng định rõ loại thuyền mà người Việt từng can trường cưỡi trên đầu sóng ngọn gió, xác lập chủ quyền cho Tổ quốc. Với ghi chép tỉ mỉ của Lê Quý Đôn thì không chỉ đội Hoàng Sa mà ngay cả đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản cũng chinh phục đại dương bằng loại thuyền nhỏ này. Khu vực mà hải đội Bắc Hải hoạt động chính là quần đảo Trường Sa và trải dài vào các đảo phía Nam.
Thuyền buồm của đội Hoàng Sa vào thế kỷ 17-18 - Ảnh: Kỷ yếu Hoàng Sa
Trong một chỉ thị cho đội Hoàng Sa tiếp tục hoạt động, triều đình Tây Sơn năm 1786 ghi rõ: “Sai Hội Đức Hầu, cai đội Hoàng Sa luôn xem xét, đốc suất trong đội cắm biển hiệu thủy quân, cưỡi bốn thuyền câu vượt biển, thẳng đến Hoàng Sa...”. Còn Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cũng ghi chép chính xác loại thuyền này khi nhắc đến đội Hoàng Sa: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng hai nhận giấy sai đi, mang lương thực đủ ăn sáu tháng, đi bằng năm chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy... Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo Hà Tiên...”. Và loại thuyền câu đó chính là thuyền mà ngư dân Lý Sơn đã truyền đời cưỡi trên đầu sóng ngọn gió.
Đặc biệt, nhiều nhà du hành, thương nhân nước ngoài khi đến Đàng Trong cũng nhắc đến loại thuyền độc đáo của ngư dân Việt mặc dù họ có một vài cách định danh khác nhau. Nhà sư Thích Đại Sán, người Trung Hoa khi đi thuyền đến xứ Đàng Trong năm 1696 đã có nhiều ghi chép trong tập Hải ngoại ký sự về loại thuyền “điếu xá” rất nhanh của người vương quốc này. Trong khi chiếc thuyền lớn xuất phát từ Quảng Đông của nhà sư Thích Đại Sán bị mắc cạn thì ông ta lại rất ngưỡng mộ loại thuyền “điếu xá” có cánh buồm như hình chiếc rìu lướt gió rất nhanh đã nhìn thấy ở vùng biển Hoàng Sa. Đây chính là loại thuyền mà chúa Nguyễn Phúc Chu đã cử ra đón nhà sư Trung Hoa này ở Cù Lao Chàm (thuở đó còn gọi Tiên Bích Sa). Và chính sử nước Việt lẫn tư liệu hàng hải quốc tế cũng ghi nhận nhà Nguyễn còn nhiều lần cử thuyền đi cứu hộ tàu nước ngoài bị đắm, trong đó có cả tàu của Hà Lan, Anh, Pháp...
Bí quyết tốc độ
Nhà sư Thích Đại Sán đã ngưỡng mộ loại thuyền nhỏ của người Việt này được cơn gió thuận thì lướt nhanh gấp 10 lần những chiếc thuyền gỗ lớn nặng nề. Đó cũng chính là bí quyết độc đáo của chiếc thuyền câu thuở nào. Thời đại máy móc ngày nay đã “chuyển giao” những chiếc ghe câu một thuở kiêu hãnh ngang dọc biển Đông vào lịch sử, nhưng ở miền Trung mà đặc biệt là Quảng Ngãi vẫn còn nhiều người từng đóng hoặc am hiểu loại thuyền vượt biển độc đáo của người Việt này.
Ông Võ Hiển Đạt kể năm 1945, Pháp giải thể các xưởng đóng thuyền ở đảo Lý Sơn. Khi đó ông đã 15 tuổi, hay mày mò vào các xưởng đóng tàu trên đảo để tìm hiểu, học nghề. Ngoài ra, dòng họ ông cũng có nhiều người đi biển, làm nghề cá bằng ghe câu mà mãi đến những năm 1970 mới nâng cấp dần lên được máy móc. Chiếc ghe câu một thời không chỉ là phương tiện mưu sinh mà còn là bạn của nhiều gia đình ở Lý Sơn.
Vừa rồi, ông Đạt đóng chiếc ghe câu đi Hoàng Sa là mô hình thu nhỏ cho Bảo tàng Quảng Ngãi. Còn kích cỡ thật của nó dài 12-18m, rộng 2,5-3m và sâu khoảng 1,8 đến hơn 2m. Điểm nhận diện đặc biệt của chiếc ghe câu này là thường đóng bằng cả gỗ và tre. Trong đó, gỗ dùng làm khung sườn và phần trên ghe, còn tre được đan thành mê bao bọc phần dưới ghe để chống nước xâm nhập bên trong. Và tre chính là bí quyết làm chiếc thuyền câu của người Việt trở nên nhẹ nhàng để đạt được tốc độ cao.
Theo ông Đạt và các bậc cao niên ở Lý Sơn, nhờ thuyền nhẹ mà các hải đội Hoàng Sa dễ dàng đổ bộ lên các rạn san hô, đảo cát trải dài thoai thoải ở Hoàng Sa mà tàu lớn không vào được. Đặc biệt, khi cần thủy chiến, những ghe câu này cũng nhanh chóng phát huy tốc độ để áp sát tấn công đối phương.
QUỐC VIỆT
______________________
Là niềm tự hào của người Việt, thuyền hải đội Hoàng Sa đã được đóng thế nào? Và tiền nhân đã vận hành thuyền này ra sao để chinh phục vùng biển đầy sóng gió Hoàng Sa?
Kỳ tới:  Câu chuyện của người thợ cả
(theo TTO)

Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2012

Người Việt chinh phục đại dương-Kỳ 1: Khát vọng tàu hơi nước

Thứ Bảy, 28/01/2012, 11:06 (GMT+7)
Người Việt chinh phục đại dương

TT - Từ xa xưa, người Việt đã giỏi thủy chiến với nhiều chiến thắng hiển hách. Đến triều Nguyễn, hải quân được nâng tầm chiến lược. Nhiều hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải được thành lập, các dự án đóng tàu hơi nước, tàu bọc đồng, đặc biệt đưa người ra nước ngoài học hỏi kỹ thuật hàng hải và kỹ nghệ đóng tàu.
Đó là hành trình dài đầy ý chí tiến ra đại dương của người Việt và minh chứng xác thực chủ quyền biển của quốc gia đã được thực thi từ lâu đời...

Kỳ 1: Khát vọng tàu hơi nước
“Tàu này mua bên Tây cũng được, nhưng muốn khiến cho công tượng nước ta tập quen máy móc cho khéo, vậy nên chẳng kể lao phí gì”. Từ năm 1839, lời phán của vua Minh Mạng đã lưu truyền chính sử, khi ông thân chinh đến dự lễ hạ thủy tàu hơi nước đầu tiên do chính người Việt đóng.
Loại thuyền đi biển quan trọng nhất của nhà Nguyễn trong thế kỷ 19 được khắc trên cửu đỉnh ở Huế - Ảnh: THÁI LỘC
Ai đóng tàu hơi nước đầu tiên?
Từ nội thành Huế, tôi tìm về quê hương Hoàng Văn Lịch đã lưu danh trong công trình đóng tàu hơi nước đầu tiên ở làng Hiền Lương, huyện Phong Điền. Đây là làng Việt cổ có tên là Hoa Lang, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa. Triều Minh Mạng đổi Thuận Hóa làm phủ Thừa Thiên và đặt lại tên làng Hoa Lang thành Hiền Lương. Trải bao biến động thời cuộc, làng luôn nổi tiếng với nghề rèn. Đặc biệt không chỉ rèn nông cụ, danh tiếng Hiền Lương còn gắn liền việc chế tạo vũ khí. Người làng đỗ đạt cao, làm quan triều đình. Khi vua Minh Mạng thực hiện cách mạng hàng hải, khởi đóng những chiếc tàu hơi nước của nước Việt thì chính Hoàng Văn Lịch, người Hiền Lương, được giao làm giám đốc công trình đặc biệt này.
Bao vương triều hưng thịnh rồi suy vong, nhưng Hoàng Văn Lịch vẫn mãi lưu danh trong ký ức nhiều đời người Hiền Lương. Nhà nghiên cứu Huế Dương Phước Thu là người làng này hồi tưởng: “Dân làng tôi truyền đời kính trọng cụ Hoàng Văn Lịch. Đến giờ vẫn còn phần mộ, nhà thờ ghi công đức cụ cho hậu thế không quên...”.
Theo nghiên cứu của ông Thu, Hoàng Văn Lịch sinh năm giáp ngọ 1771 ở làng Hiền Lương, hưởng thọ 77 tuổi. Công đức ông rõ nhất có lẽ chính là nội dung bản sắc phong của vua Thiệu Trị được khắc trên bia mộ: “Năm Thiệu Trị thứ sáu. Cáo thọ Minh Nghĩa đô úy Võ khố đốc công sở chánh giám đốc thủy tráng dực Lương Sơn Hầu Hoàng Văn Lịch... Nay ban tờ chiếu này trước là để cho tận lực của người được phấn chấn mà tỏ lòng cường lĩnh, trung kiên, sau là để thưởng cho người nhiều công lao đốc thúc, đảm đang phòng ngự, bảo vệ vương triều...”. Đặc biệt, mặt sau bia mộ còn được con cháu đời sau ông ghi cụ thể: “Hiển cao tổ khảo Hoàng Văn Lịch... trí tuệ thông minh, kỹ nghệ tinh xảo, học thông chữ tốt, võ vẫn kiêm văn. Triều Gia Long bổ vào Thạch Cơ Tượng. Triều Minh Mạng thăng thọ chánh giám đốc ở sở Võ khố kiêm quảng bá công cuộc... đốc suất chế tạo ra mấy chiếc hỏa thuyền...”.
Đầu đông 2011, nắng hanh hao đường làng Hiền Lương. Tôi lần lại dấu vết người xưa. Phó giáo sư Hoàng Dũng, hậu duệ họ Hoàng làng Hiền Lương, kể rằng ông đã được nghe các bậc cao niên truyền kể cụ Hoàng Văn Lịch là người đặc biệt, mang lại tiếng thơm cho làng. Học hành đỗ đạt làm quan thì nhiều làng đều có, nhưng từ người làng rèn trở thành “công trình sư trưởng” đóng tàu hơi nước đầu tiên ở Việt Nam như cụ Hoàng Văn Lịch làng Hiền Lương này là rất hiếm để đời sau tôn vinh.
Hỏa thuyền Đại Nam
Những ngày ở Huế, tôi cố gắng tìm dấu vết còn lại của những chiếc tàu hơi nước đầu tiên. Quốc triều sử toát yếu của Cao Xuân Dục kể rằng triều Minh Mạng năm thứ 19 (1838) đã cho Võ khố đóng tàu hơi nước theo nghiên cứu kiểu cách tàu máy mua của Tây Dương.
Năm sau, công trình đặc biệt này hoàn thành. “Tháng 4, ngài (vua Minh Mạng) ngự chơi Bến Ngự, xem thí nghiệm tàu chạy máy hơi. Khi trước khiến sở Võ khố chế tạo tàu ấy, đem xe chở ra sông, giữa đàng vỡ nồi nước, máy không chạy, người đốc công bị xiềng, quan bộ công là Nguyễn Trung Mậu, Ngô Kim Lân vì cớ tâu không thiệt đều bị bỏ ngục. Bấy giờ chế tạo lại, các máy vận động lanh, thả xuống nước chạy mau. Ngài ban thưởng giám đốc là Hoàng Văn Lịch, Võ Huy Trinh mỗi người một cái nhẫn pha lê độ vàng, một đồng tiền vàng Phi Long hạng lớn, đốc công và binh tượng được thưởng chung 1.000 quan tiền. Ngài truyền rằng: Tàu này mua bên Tây cũng được, nhưng muốn khiến cho công tượng nước ta tập quen máy móc cho khéo, vậy nên chẳng kể lao phí gì”...
Tác giả Huỳnh Hữu Hiến viết cuốn Hiền Lương chí lược, kể thêm sau cuộc thử nghiệm thất bại, giám đốc Hoàng Văn Lịch cùng cộng sự tại Võ khố nghiên cứu, sửa chữa được hỏng hóc và chạy thử thành công ở sông An Cựu. Sự kiện này đánh dấu mốc lịch sử trong nỗ lực của ngành đóng tàu nước Việt. Sử nhà Nguyễn ghi chép rõ ý chí nắm bắt kỹ thuật đóng tàu máy của nước Việt từ cách đây gần hai thế kỷ: “... Kiểu thuyền ấy nhờ hơi mà chuyển động, không cần gió nước thuận hay nghịch, không bắt sức người chèo chống mà thuyền tự phóng nhanh, máy móc thực là tinh xảo. Phải thu mua bằng giá đắt để phỏng theo cách thức đóng thuyền lớn khác để dùng mãi mãi”.
Sau đó, ít nhất hai tàu hơi nước khác được tiếp tục đóng mới. Đặc biệt, Hoàng Văn Lịch còn chỉ huy thợ thuyền chế tạo thành công bộ máy tàu lớn. Ngoài thợ kinh thành và làng Hiền Lương, 90 thợ rèn, đúc ở Hà Tĩnh, Bắc Ninh cũng được trưng dụng. Kỹ thuật đóng tàu được nghiên cứu, cải tiến, kể cả cỡ tàu, mớm nước lẫn động cơ. Để nâng vận tốc và độ linh hoạt, những bộ phận quan trọng như thùng hơi nước, bánh xe quay đều được tăng kích cỡ trong khi ván thuyền sử dụng nhiều loại gỗ nhẹ hơn. Từ đây, ngành đóng tàu hơi nước triều Minh Mạng tiến dần đến quy thức công nghiệp. “Lần này, đóng thuyền cơ khí, vật kiện máy móc làm ra kích thước to nhỏ đã có đồ thức làm bằng cứ, không ví như một lần đầu làm thử... Hạn trong tháng 12 nay hiện đã hoàn chỉnh, quả có linh hoạt, tinh xảo nên công hiệu rõ ràng”.
Theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, ít nhất triều Minh Mạng đã đóng thành công mấy chiếc tàu hơi nước. Chiếc Yên Phi lớn nhất, dài 8 trượng 5 thước 2 tấc, rộng 2 trượng 6 tấc và sâu 8 thước 6 tấc 1 phân (1 trượng = 10 thước mộc, một thước mộc = 0,425m). Hai chiếc khác là Vân Phi và Vụ Phi. Đặc biệt, tàu hơi nước người Việt đóng đã có cải tiến so với tàu mua. “Chiếc thuyền cơ khí mua của Tây Dương cũ, trước đã có chỉ giao Vệ long thuyền nhận giữ để chạy thử. Hiện nay thuyền cơ khí đã có những chiếc mới đóng, còn chiếc cũ ấy ngắn nhỏ, xét ra không dùng vào việc gì”.
Thời vua Thiệu Trị tiếp tục cho đóng mới tàu hơi nước tên Hương Nhi và cải tiến các tàu đã đóng. Ngoài đóng mới, triều đình cũng mua thêm tàu hơi nước và tiếp tục học hỏi kỹ thuật đóng tàu hiện đại bấy giờ.
QUỐC VIỆT
___________
Trong lúc nhà Nguyễn nỗ lực học hỏi kỹ thuật đóng tàu hơi nước, các hải đội Hoàng Sa vẫn tiến ra đại dương để khẳng định và bảo vệ chủ quyền Tổ quốc. Họ đã đi bằng thuyền gì?
Kỳ tới: Hải thuyền Hoàng Sa
(Theo TTO)

Thứ Tư, 18 tháng 1, 2012

38 năm ngày Trung Quốc chiếm Hoàng Sa

Cập nhật: 16:37 GMT - thứ năm, 19 tháng 1, 2012
Chiến hạm Nhật Tảo HQ-10
Trong trận hải chiến Hoàng Sa, 60 chiến sỹ VNCH tử nạn
Câu hỏi về việc vinh danh các chiến sỹ Việt Nam Cộng hòa hy sinh tại Hoàng Sa lại nổi lên nhân ngày 38 năm quần đảo này vào tay Trung Quốc.
Đúng 38 năm trước, 58 lính hải quân Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa kéo dài từ 17/1-19/1, nhưng không bảo vệ được quần đảo này.
Một số nguồn tin trên mạng nay nói con số người thiệt mạng phía Việt Nam là 74.
Tuy quân số hai bên không khác nhau nhiều, nhưng các chiến hạm của Trung Quốc tối tân hơn hẳn của Việt Nam Cộng hòa.
Hạm đội 7 của hải quân Hoa Kỳ đóng gần đó đã không có sự trợ giúp nào, ngay cả khi nghe cầu cứu. Những người chỉ huy hải quân VNCH thời đó tin rằng Trung Quốc đã nổ súng giao tranh vì biết rằng Mỹ sẽ không can dự.
Các chiến hạm của VNCH tham gia hải chiến Hoàng Sa bao gồm tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), tuần dương hạmTrần Bình Trọng (HQ-5) và khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4).
Thủy thủ đoàn trên hộ tống hạm Nhật Tảo do hạm trưởng Ngụy Văn Thà chỉ huy đã bị thương vong nhiều nhất. Bản thân ông Ngụy Văn Thà hy sinh theo tàu khi tàu này bị bắn chìm.
Những năm gần đây, trong nỗ lực hòa giải dân tộc đã có kêu gọi nhà nước Việt Nam vinh danh các chiến sỹ tham gia hải chiến Hoàng Sa.

Thay đổi thái độ

Từ giữa năm ngoái, báo chí chính thống trong nước đã có bài nói về trận đánh này, mà họ gọi là trận 'quyết tử của người Việt để bảo vệ chủ quyền dân tộc'.
Báo Đại Đoàn Kết hồi tháng 7/2011 công khai đăng ý kiến kêu gọi "cần vinh danh những người con đất Việt đã hy sinh trong trận hải chiến bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974”.
"Nếu người ta nghĩ đến công lao của chồng tôi mà có sự vinh danh, thì tôi rất vui mừng. Thật sự tôi không biết nói sao, ngoài một điều là ông ấy đã hy sinh để bảo vệ Tổ quốc."
Bà quả phụ Ngụy Văn Thà
Thái độ về Hoàng Sa của chính quyền trong nước dường như đã thay đổi mạnh, nhất là khi Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng phát biểu trước Quốc hội về chủ đề từng được coi là nhạy cảm trong quan hệ Việt-Trung này.
Hôm 25/11, ông Dũng nói trước các nhà lập pháp của Việt Nam, rằng "chủ trương của Việt Nam là đàm phán để đòi hỏi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa".
Ngoài việc chỉ rõ Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực, ông thủ tướng nói thêm Việt Nam cũng chủ trương "đàm phán giải quyết, đòi hỏi chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình".
Phát biểu của ông Nguyễn Tấn Dũng được đánh giá là có 'dịch chuyển về chính sách'.
Thế nhưng, kêu gọi vinh danh những người lính thuộc phía bên kia của 'cuộc chiến chống Mỹ' dường như chưa có diễn biến gì mới.
"Hy sinh vì Tổ quốc"
Bà Huỳnh Thị Sinh, tức bà quả phụ Ngụy Văn Thà, nói không nhận được thông tin gì liên quan tới sự kiện gắn với cái chết của chồng bà.
Từ TP Hồ Chí Minh, bà quả phụ nói với BBC trong nước mắt: "Nếu người ta nghĩ đến công lao của chồng tôi mà có sự vinh danh, thì tôi rất vui mừng".
"Thật sự tôi không biết nói sao, ngoài một điều là ông ấy đã hy sinh để bảo vệ Tổ quốc."
Lễ tưởng niệm trận hải chiến Hoàng sa ở Nam California
Lễ tưởng niệm tử sỹ Hoàng Sa được tổ chức hàng năm
Hiện bà Sinh đang phải tá túc "cùng một số chị em" khi nhà cũ của bà bị giải tỏa, trong lúc chờ được chuyển định cư tới một căn nhà mới, nơi bà sẽ dành chỗ để lập bàn thờ cho chồng.
"Ở chỗ này, tôi cũng không có chỗ nào để lập bàn thờ cho ông ấy."
Trong khi đó, ở Hoa Kỳ, lễ tưởng niệm hải chiến Hoàng Sa đã được tổ chức cuối tuần qua.
Báo Người Việt cho hay hôm 15/1, "hàng trăm đồng hương Việt ở Nam California đã tập trung tại Tượng đài Chiến sỹ Việt Mỹ tại Westminster để làm lễ tưởng niệm" những người ngã xuống trong trận chiến 1974.
Báo này viết: "Trước tình trạng bành trướng của Trung Quốc tại Biển Ðông, kỷ niệm trận hải chiến Hoàng Sa nay là một biểu tượng yêu nước, quyết giữ gìn bờ cõi của dân tộc Việt Nam".
Được biết đây là hoạt động hàng năm của cộng đồng Việt Nam ở Nam California.

Theo BBC.

"Tôi yêu những người lính bảo vệ tổ quốc Việt Nam. Việt Nam Muôn Năm. Nguyện sẽ hy sinh bản thân mình cho tổ quốc khi cần."
Thiện Bảo Tâm

Thứ Hai, 16 tháng 1, 2012

Bien Hoa Dragon City, Dự Án Biên Hòa, Đồng Nai, Khu Đô thị Dragon City

tag: Bien Hoa Dragon City, Biên Hòa Dragon City, Khu đô thị Dragon City, Khu do thi Dragon City, Du an Bien Hoa Dragon City, Dự án Biên Hòa Dragon City, Du an Dragon City, Dự án Dragon City, Bien Hoa Dragon City Dong Nai, Du An Dragon City Bien Hoa Dong Nai, Dự Án Lớn Tại Đồng Nai , Đất nền Đồng Nai, Đất Đồng Nai, Đất Biên Hòa Đồng Nai

KHU ĐÔ THỊ BIEN HOA DRAGON CITY
Điểm Vàng Đầu Tư
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong NaiBien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
 VỊ TRÍ VÀNG

TỔNG QUAN DỰ ÁN

Tên gọi: Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City
Chủ Đầu tư: Tập Đoàn Tín Nghĩa và công ty Phú Tín
Đơn Vị hợp tác đầu tư và phân phối: Công ty CP Địa Ốc Kim Oanh
Quy mô dự án:  33 ha
Dự án Bao gồm nhà phố liên kế và Biệt thự từ 76m2 – 165m2
Bien Hoa Dragon City tọa lạc tại xã Tam Phước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Dự án có một vị trí vô cùng thuận lợi cho giao thương, học tập và làm việc, là một nút thắt cực kỳ quan trọng, là điểm hội tụ của tam giác vàng TPHCM – Biên Hòa - Vũng Tàu, hạ tầng giao thông kết nối liên vùng …
Bien Hoa Dragon City chỉ cách đường Cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu (sẽ khởi công xây dựng quí 3 năm 2012) 800m, liền kề Ngã 3 Thái Lan đi QL1A, cách ngã 3 Vũng Tàu 8 km, cách QL51 đi Vũng Tàu chỉ 2 phút xe máy , cách TPHCM chỉ 28km …
Phía Bắc: Đối diện KCN Tam Phước qui mô 151ha
Phía Nam: giáp KDC hiện hữu
Phía Đông: Dự án phố thương mại 18 ha
Phía Tây: giáp trường Trung cấp Địa Chính 3, Đại học Tài Nguyên – Môi Trường
TIỆN NGHI - KHÔNG GIAN SỐNG ĐẲNG CẤP
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai

Tọa lạc ngay thành phố lớn Biên Hòa (là trung tâm công nghiệp quan trọng của cả nước, trung tâm chính trị - kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai).
Bien Hoa Dragon City tận hưởng đầy đủ tiện ích phục vụ cho công việc, kinh doanh, học hành của các thành viên trong gia đình, cơ hội tiếp cận thông tin, và sự an toàn với các cơ quan quân đội, công an bao quanh…

Bien Hoa Dragon City nằm giữa khu dân cư nhộn nhịp, sầm uất với đầy đủ tiện ích của cuộc sống đô thị hiện đại như trung tâm thương mại, công viên, khu mua sắm, dịch vụ Spa, Cinebox, nhà hàng, văn phòng cho thuê, trường học theo tiêu chuẩn quốc tế, khu thể thao…

Hạ tầng giao thông hoàn chỉnh: đường nội bộ rộng: 12m - 20m trải nhựa, vỉa hè đã lót gạch rộng 3m - 4m. Công viên, cây xanh, thảm cỏ được bố trí xen lẫn giữa các dãy biệt thự, các công trình công cộng tạo một không gian lãng mạn, bình yên. Những con đường nội bộ xuyên qua những công viên cây xanh thơ mộng. Bạn có thể cùng người thân tản bộ trò chuyện trong buổi hoàng hôn tuyệt đẹp, tận hưởng không khí trong lành mà không bị làm phiền bởi tiếng ồn của động cơ xe và nhịp sống sôi động xung quanh.
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai

Tiện nghi không gian sống đẳng cấp

Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai

VỊ THẾ THIÊN THỜI – ĐỊA LỢI – NHÂN HÒA
Vùng Trấn Biên xưa – đất Đồng Nai, Biên Hòa ngày nay là xứ địa đầu của Nam Bộ mà các chúa, vua nhà Nguyễn đặt làm nền móng để mở mang lãnh thổ. Biên Hòa – Đồng Nai với địa thế “rồng bay, hổ cuộn” đã thu hút người dân thập phương đến đây kinh doanh lập nghiệp và hình thành nên Cù lao Phố sầm uất nổi tiếng một thời. Biên Hoà - Đồng Nai ngày nay tiếp tục là vùng đất mở thu hút nguồn nhân lực với những khu công nghiệp lớn – hiện đại ngang tầm quốc tế. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, các cấp chính quyền luôn tạo điều kiện tốt nhất để Biên Hòa phát triển tối đa những ưu thế của mình.
Tận hưởng trọn vẹn những ưu thế trên, Bien Hoa Dragon City  được xây dựng như một khu đô thị đẳng cấp với qui hoạch đồng bộ, thiết kế hiện đại (điện ngầm), là tâm điểm của một thành phố mới với các tiện ích hiện đại: hạ tầng giao thông kết nối liên vùng (QL51, cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu), các trường học từ mầm non đến đại học bao quanh, dân cư đông đúc, chợ, ngân hàng, khu công nghiệp tạo ra rất nhiều công ăn việc làm cho cư dân tại đây. Gía  trị Bất động sản gia tăng từng ngày theo đà phát triển không ngừng của thành phố và khi sân bay Long Thành đi vào hoạt động.
Bạn sẽ tìm thấy một môi trường 3 trong một hoàn hảo (làm việc, học tập, tận hưởng cuộc sống) và một cơ hội đầu tư lớn chỉ có tại Bien Hoa Dragon City. Hãy gọi ngay cho chúng tôi để sở hữu những vị trí đẹp nhất!
SƠ ĐỒ VỊ TRÍ VÀ TIỆN ÍCH
Vị trí:
  • Đối diện KCN Tam Phước qui mô 151ha
  • Cạnh đường Ngã 3 Thái Lan đi QL1A
  • Cách đường Cao tốc Biên Hòa Vũng Tàu (sẽ khởi công xây dựng quí 3 năm 2012) 1km (2 phút)
  • Gần đường Đại lộ Bắc Sơn – Cẩm Mỹ 60m
  • Cách ngã 3 Vũng Tàu 8km (10 phút)
  • Cách TPHCM (Cầu Sài Gòn) 28km (30 phút)
  • Gần QL51 đi Vũng Tàu cách 1,5km (2 phút)
  • Cách sân bay quốc tế Long Thành 7km (10 phút)
Tiện Ích:
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
 Sơ đồ tiện ích Dự Án Bien Hoa Dragon City
  • Sát trường Đại học Tài Nguyên Môi Trường
  • Sát trường Cấp 2 Tam Phước 2
  • Sát trường Cấp 3 Tam Phước
  • Đối diện trường Trung cấp Địa Chính 3
  • Sát trường Mầm Non Thành Nghĩa
  • Ngay khu dân cư đông đúc
  • Sát khu công nghiệp Tam Phước Qui mô 151ha
  • Sát chợ hiện hữu
  • Gần trường Sĩ quan lục quân 2
  • Gần trường Thiết giáp
  • Gần KCN An Phước 130ha
  • Gần cụm công nghiệp Dốc 47
  • Gần chợ Tân Mai 2 (3 km)
  • Gần chợ Long Đức (2km)
  • Gần KDL Sinh Thái Vườn Xoài
  • Gần trường Trung Cấp An Ninh Nhân Dân 2
  • Sát trung tâm hành chính Long Thành
  • Gần trung tâm hành chính tỉnh Đồng Nai qui mô 275ha
  • Gần nơi làm việc các công ty lớn như: Washi Washi, A First Vina, Amajaro Viet Nam,…
 Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
 Sơ đồ Phân Lô Dự Án Bien Hoa Dragon City
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
Nhà Phố

Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
Biệt thự

Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
Trường Học
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
Hồ Bơi
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
Nhà Mẫu thực tế tại Dự Án Bien Hoa Dragon City
 Một số hình ảnh thực tế tại Dự Án:
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
Trường mẫu giáo
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
Khu Công Nghiệp Tam Phước
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai
Bien Hoa Dragon City, Khu Đô Thị Bien Hoa Dragon City, Dự Án Dragon City, Dragon City Bien Hoa Dong Nai

Click để xem Các Sản Phẩm : Bien Hoa Dragon City

www.diaockimoanh.com.vn
MỌI CHI TIẾT VỀ SẢN PHẨM VUI LÒNG LIÊN HÊ:
 Sàn Giao Dịch BDS  Kim Oanh

164 Xô Viết Nghệ Tĩnh, P.21, Q.Bình Thạnh, TP-HCM

Hotline:  0984.883.868





Mua Ban Nha Dat | Mua Ban Dat Nen | Tin Dia oc | Dat Binh Duong | Dat Dong Nai | Dat TP Ho Chi Minh | Dat Long An

Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2012

'Đường lưỡi bò' gây phức tạp Biển Đông

'Đường lưỡi bò' gây phức tạp Biển Đông

Ủy ban Biên giới quốc gia Việt Nam bình luận rằng đường lưỡi bò mà Trung Quốc nêu ra là nguyên nhân gây căng thẳng phức tạp Biển Đông, và việc Trung Quốc đòi các nước phải xin phép để được khai thác dầu khí ở Biển Đông là vô lý.

Ngày 6/1/2012, Phó Vụ trưởng Vụ Biên giới và Biển, Bộ Ngoại giao Trung Quốc Dị Tiên Lương trả lời trực tuyến mạng Tin tức Trung Quốc về tranh chấp trên Biển Đông.
Về vấn đề này, Tiến sĩ Lê Quý Quỳnh, Vụ trưởng Vụ Biển - Uỷ ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã trả lời phỏng vấn báo VnExpress.
Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo Trường Sa Lớn, quần đảo Trường Sa. Ảnh: Thanh Hưng
Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo Trường Sa Lớn, quần đảo Trường Sa. Ảnh: Thanh Hưng
- Trong bài phỏng vấn của mình, ông Dị Tiên Lương có nói: Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, Trung Quốc đã thu hồi quần đảo “Tây Sa” (cách Trung Quốc gọi Hoàng Sa của Việt Nam) và “Nam Sa” (cách Trung Quốc gọi Trường Sa của Việt Nam) từ tay quân Nhật. Vậy thưa ông, sự thật lịch sử là như thế nào?
- Tại Hội nghị hòa bình San Francisco 1951 - một Hội nghị quốc tế quan trọng giải quyết vấn đề quy thuộc các vùng lãnh thổ sau chiến tranh thế giới thứ II, đại diện của Chính phủ Việt Nam khi đó đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và không có nước nào tham dự Hội nghị phản đối, trong khi Dự thảo Nghị quyết do Liên Xô đưa ra nhằm trao hai quần đảo này cho Trung Quốc đã bị 48/51 phiếu chống. Điều đó cho thấy, đòi hỏi về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã bị bác bỏ; còn chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được thừa nhận tại một hội nghị quốc tế quan trọng sau chiến tranh thế giới thứ II. Như vậy, ý kiến phát biểu nói trên của ông Dị Tiên Lương là hoàn toàn trái với thực tế lịch sử lúc bấy giờ.
- Ông Dị Tiên Lương nói rằng: Tháng 12/1947, Bộ Nội chính Chính phủ Trung Quốc đã ban hành “Bản đồ vị trí các đảo ở Nam Hải”, vẽ “đường nét đứt” và đặt tên cho một số đảo đá, bãi v.v.... và chính thức công bố ra bên ngoài năm 1948 v.v... Đường nét đứt là để khẳng định chủ quyền lãnh thổ và lợi ích biển liên quan của Trung Quốc. Việc Trung Quốc đưa ra đường yêu sách theo đường đứt khúc 9 đoạn (hay còn gọi là “đường lưỡi bò”) năm 2009 trên Biển Đông đã gây ra rất nhiều phản ứng của các nước trong và ngoài khu vực và đã bị phê phán rất nhiều trong các cuộc hội thảo quốc tế. Xin ông cho biết ý kiến về việc này?
- Cho tới trước năm 2009, Trung Quốc chưa bao giờ chính thức đưa ra yêu sách này. “Đường lưỡi bò” hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và lịch sử, vì được vẽ ra một cách tùy tiện, không có toạ độ của các điểm cụ thể và không được quốc tế công nhận. Năm 2009, Trung Quốc lần đầu chính thức đưa yêu sách “đường lưỡi bò” ra Liên Hợp Quốc nhưng không có giải thích cụ thể. Ngay sau đó, Việt Nam, và tiếp đến là Indonesia, Philippines đã gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối yêu sách phi lý đó của Trung Quốc. Tại các cuộc hội thảo quốc tế gần đây, rất nhiều học giả quốc tế như Pháp, Bỉ, Mỹ, Indonesia đã chỉ ra tính phi lý của yêu sách “đường lưỡi bò”, đồng thời, nhiều học giả còn nhấn mạnh rằng, chính yêu sách “đường lưỡi bò” là nguyên nhân gây ra những căng thẳng, phức tạp trên Biển Đông. Cụ thể là:
- Yêu sách “đường lưỡi bò” hoàn toàn đi ngược lại Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 mà Trung Quốc là một bên tham gia; vùng biển mà “đường lưỡi bò” bao trùm không thể là lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Trung Quốc.
- Cho tới nay, các văn bản pháp luật về biển của Trung Quốc đều không đề cập tới yêu sách “đường lưỡi bò”;
- Thực tiễn các quốc gia ven Biển Đông cũng như các quốc gia ngoài khu vực đều phủ nhận yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc;
- “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc đã xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của năm nước là Việt Nam, Philippines, Indonesia, Malaysia và Brunei.
- Ông Dị Tiên Lương khẳng định Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý đối với chủ quyền ở “Nam Sa” (Trường Sa). Ông có ý kiến gì về vấn đề này?
- Đối với vấn đề chủ quyền lãnh thổ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và chứng cứ lịch sử chứng minh rằng Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này ít nhất từ thế kỷ 17 khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào. Từ thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ 19, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo như cử các đội Hoàng Sa ra quần đảo đo đạc, thể hiện trên bản đồ, dựng bia, lập miếu, quản lý và tổ chức đánh bắt hải sản tại quần đảo Hoàng Sa. Các văn bản pháp lý của Nhà nước phong kiến Việt Nam như Châu bản, Sắc chỉ hiện đang được lưu giữ tại các trung tâm lưu trữ của Việt Nam đã khẳng định rõ chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong thời kỳ Pháp thuộc (cuối thế kỷ 19 nửa đầu thế kỷ 20), Pháp đã nhân danh Việt Nam tiếp tục thực thi quyền quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; từ những năm 30 của Thế kỷ 20 Pháp quy thuộc hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào các tỉnh đất liền của Việt Nam và cho quân đồn trú ở hai quần đảo này; sau đó theo Hiệp định Geneva, Pháp đã chuyển giao hai quần đảo cho chính quyền Sài Gòn - Chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Sau năm 1975, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý các đảo ở Trường Sa.
Như vậy, việc thực thi chủ quyền lãnh thổ của các Nhà nước Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được tiến hành một cách thực sự, hoà bình và liên tục, phù hợp với luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, năm 1956 Trung Quốc đã đưa quân đội chiếm các đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa, năm 1974 Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa; và năm 1988, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa. Hành động này của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đi ngược lại tinh thần Hiến Chương của Liên Hợp Quốc và đã bị nhiều quốc gia trên thế giới lên tiếng lên án.
- Ông Dị Tiên Lương nói rằng năm 1958, Thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã gửi Công thư đến Thủ tướng Chu Ân Lai, công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với đảo “Tây Sa” (Hoàng Sa) và “Nam Sa” (Trường Sa). Ông có thể cho biết ý kiến của mình về việc này?
- Nội dung của Công thư ngày 14/9/1958 là hết sức rõ ràng: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ ghi nhận, tán thành và tôn trọng Quyết định của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về hải phận 12 hải lý của đất nước Trung Quốc. Công thư không liên quan gì đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó nằm phía Nam Vĩ tuyến 17 và theo Hiệp định Geneva thuộc thẩm quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt Nam - Chính phủ Việt Nam Cộng hoà.
Việc cho rằng bản Công thư ngày 14/9/1958 là bằng chứng Chính phủ Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là xuyên tạc lịch sử. Việt Nam từ trước tới nay chưa hề có bất cứ một tuyên bố nào từ bỏ chủ quyền thiêng liêng của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 9 năm 1975, khi tiếp đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam sang thăm Trung Quốc, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã nói: “Giữa hai nước có tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau này sẽ bàn bạc giải quyết”. Trong Bị vong lục ngày 12/5/1988 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng đã nhắc lại nội dung này. Điều này cho thấy, theo quan điểm của phía Trung Quốc, giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc có tồn tại tranh chấp đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại các cuộc đàm phán về vấn đề trên biển giữa hai nước, kể cả tại các vòng đàm phán về Thoả thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển vừa qua, hai bên đều nêu rõ quan điểm của mình về vấn đề chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tôi xin khẳng định lại một lần nữa rằng lập trường của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là rõ ràng và nhất quán. Việt Nam là nhà nước đầu tiên và duy nhất đã thực hiện quyền làm chủ của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách hoà bình, ổn định và liên tục. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mặt khác, Việt Nam chủ trương giải quyết mọi tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng Luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 và trên tinh thần của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002.
- Ông có bình luận gì về việc ông Dị Tiên Lương nói rằng các hoạt động dầu khí của các nước ở “Nam Hải” (Biển Đông) mà không có sự đồng ý của Trung Quốc là hoạt động phi pháp?
- Là quốc gia đã ký kết và phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, Việt Nam đã và đang thực thi đầy đủ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các hải đảo, vùng biển và thềm lục địa của mình theo các quy định của Công ước. Cụ thể, Việt Nam đã thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đảm bảo thi hành pháp luật trên các vùng biển và hải đảo; tiến hành thăm dò, khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển trong đó có các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí. Các hoạt động dầu khí đều được tiến hành trong vùng đặc quyền và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, không có tranh chấp với bất kỳ quốc gia nào.
Chính Trung Quốc cũng là quốc gia đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 nên cần phải có nghĩa vụ thực hiện các quy định của Công ước này.
Phát biểu nói trên của ông Dị Tiên Lương là hoàn toàn vô lý, xúc phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các quốc gia ven biển theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982.
 (Thằng China vô cùng ác độc)