Thứ Năm, 23 tháng 2, 2012

VN phản đối TQ hoạt động ở Biển Đông

Cập nhật: 12:42 GMT - thứ năm, 23 tháng 2, 2012
Quần đảo Hoàng Sa
Trung Quốc đã tăng cường hoạt động tại Hoàng Sa kể từ đầu năm 2012
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối các hoạt động của một số bộ ngành Trung Quốc ở khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ đầu năm đến nay.
Trong phiên họp báo thường kỳ hôm thứ Năm ngày 23/2, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị một lần nữa khẳng địnhViệt Nam ‘có chủ quyền không thể tranh cãi’ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
“Mọi hoạt động ở khu vực hai quần đảo này mà không được sự đồng ý của Việt Nam là xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam,” ông nói.

Trái thỏa thuận

Ông Nghị cũng chỉ trích các hoạt động của Trung Quốc ở hai quần đảo này đã ‘làm phức tạp và căng thẳng thêm tình hình trên Biển Đông, trái với thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề trên biển đã ký giữa hai nước, không phù hợp với Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông, cũng như các cam kết duy trì ổn định, hòa bình trên biển.’
Trong chuyến thăm Trung Quốc hồi tháng 10 năm ngoái, phái đoàn của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký với Trung Quốc thỏa thuận về các nguyên tắc chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển mà ông Nghị cáo buộc là phía Trung Quốc đang làm trái.
“Việt Nam yêu cầu Trung Quốc dừng ngay các hành động, hủy bỏ các dự án xâm phạm chủ quyền của Việt Nam, cùng các bên liên quan hợp tác gìn giữ hòa bình, ổn định ở Biển Đông,” người phát ngôn Bộ Ngoại giao nói.
Trước đó, theo báo chí Trung Quốc thì chỉ trong vòng chưa đầy hai tháng từ đầu năm, nước này đã có các hoạt động dồn dập tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bộ trưởng giao thông Trung Quốc ra Hoàng Sa thị sát tàu Hải Tuần. Cục trưởng Cục thể thao đến thăm đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa trong khi cục trưởng Cục ngư chính khu ‘Nam Hải’ loan báo nước này đang tính xây dựng căn cứ nghề cá trên đảo Phú Lâm cũng như xây cầu tàu và căn cứ cho dịch vụ nghề cá ở Trường Sa.
Viện nghiên cứu môi trường và khảo sát công trình hải dương của ‘Nam Hải’ đang thực hiện dự án đo đạc, giám sát, phân tích và đánh giá sự thay đổi của một số đảo ở Hoàng Sa.
Trước đó, tân Đại sứ Trung Quốc ở Philippines Mã Cơ Thanh đã phát biểu trong buổi đón tiếp tại tòa đại sứ Trung Quốc ở Manila hôm thứ Hai ngày 20/2 rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ có thể cùng tồn tại hòa bình trong khu vực.
Người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị
Bộ ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần phản đối Trung Quốc về các vấn đề ở Biển Đông
Bà Đại sứ Mã cũng nhắc lại lời của phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong cuộc gặp mới đây tại Nhà Trắng rằng ‘chiều rộng của Thái Bình Dương có đủ không gian cho cả Mỹ và Trung Quốc hiện diện’.
“Tôi nghĩ điều đó thể hiện rõ ràng rằng Trung Quốc và Mỹ có thể hợp tác trong khu vực,” bà nói, “Chúng tôi nhìn nhận vai trò của mình ở đây là vai trò của hòa bình và ổn định và chúng tôi hy vọng rằng chúng tôi có thể làm việc cùng với Mỹ vì mục tiêu đó.”

‘Đường lối xuyên suốt’

Bình luận về những động thái gần đây của Bắc Kinh, TS sử học Nguyễn Nhã, người chuyên nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam ở Trường Sa và Hoàng Sa, nói với BBC rằng các động thái này chứng tỏ rằng ‘Trung Quốc đang khẳng định chủ quyền của mình ở những đảo mà họ đã chiếm đóng’.
Giải thích lý do cho các hoạt động này của Trung Quốc trong bối cảnh nước này và Việt Nam vừa có các động thái làm giảm căng thẳng và cam kết không làm phức tạp thêm tình hình, ông Nhã cho rằng ‘Trung Quốc luôn như thế – nói một đằng làm một nẻo’.
“Cái gì về ngoại giao thì họ (Trung Quốc) cứ làm, còn cái gì thể hiện sức mạnh ở Biển Đông thì họ cũng cứ tiếp tục,” ông nói.
Còn về cách đối phó của Việt Nam, ông Nhã cho rằng Việt Nam nên kết hợp nhiều hoạt động, không chỉ ngoại giao mà còn kinh tế, quân sự.
“Trong lịch sử Trung Quốc luôn muốn thể hiện mình có sức mạnh nhưng kết quả thế nào thì đã thấy rõ,” ông nói, “Việt Nam luôn có đủ kiên cường để đòi lại những gì của mình.”
Ông nói vào lúc này Việt Nam vẫn phải tiếp tục con đường đấu tranh ngoại giao ‘khi còn yếu’ và một khi đã hùng mạnh ‘thì mọi việc sẽ dễ dàng hơn.’

Theo BBC.

Thứ Tư, 8 tháng 2, 2012

Sai lầm khi đến chùa cầu xin tài lộc!


09/02/2012 06:00:00 AM (GMT+7)

 Hiện tượng đến chùa, đền trong các dịp lễ hội đầu năm để cầu xin tiền tài và may mắn đã trở thành thói quen của nhiều người. Nhưng suy nghĩ đó liệu đã đúng với Đạo Phật?
Phóng viên Vietnamnet đã có cuộc trao đổi với Thượng tọa Thích Kiến Nguyệt – Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm  Tây Thiên để làm rõ vấn đề trên và để nghe người trong chùa nói về các quy tắc khi đến nơi cửa Phật.
- Khi lên chùa thờ phật, người đến lễ nếu muốn dâng lễ thì dâng những gì là đúng với Đạo Phật, thưa thầy?
- Người đến chùa chỉ cần cúng hương và hoa quả tinh khiết. Còn tiền mặt là để nhà chùa xây dựng và làm việc từ thiện nếu thầy trụ trì chùa đó tu chân chính.
- Xin thầy cho biết ý kiến về việc nhiều người dân lên chùa đốt rất nhiều  vàng mã?
- Chuyện đốt vàng mã đến cửa phật để cầu xin tiền tài là chuyện hoàn toàn không có trong Đạo Phật. Đó là hành động hết sức lãng phí tiền của vào sai chỗ, sai mục đích và không đúng với Đạo Phật.
Thượng tọa Thích Kiến Nguyệt – Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm  Tây Thiên (Ảnh: Vnphoto.net)
Phật dạy: Ta không ban phước, không giáng họa cho ai..."
- Thầy có thể cho biết hiện tượng người dân dùng tiền thật rải tran lan với mục đích cầu lộc và may mắn liệu có đúng với tinh thần Đạo Phật ?
- Nếu đến chùa dâng tiền, cầu xin tài cầu lộc mà Phật có thể ban cho được thì phải chăng Phật biết nhận hối lộ? Hoàn toàn sai lầm và mê tín khi nghĩ như vậy.
Tôi nói vậy vì đã là người theo đạo Phật phải tuân theo luật Nhân-Quả. Gieo nhân gì gặt quả đó. Nhiều người hiểu sai lầm khi đến chùa cầu xin mà quên rằng Phật có dạy: “Ta không ban phước, không giáng họa cho ai hết mà chính các người lãnh cái quả do mình gây ra”
Hiện tượng người dân đến chùa nhét, đặt tiền lẻ lên tượng và nhiều nơi liệu có đúng với tinh thần của Phật Giáo và là một hình ảnh đẹp? (Ảnh: Tuoitre)
- Nhưng khi vào đền thờ các thần linh… việc cúng tiền theo nhiều người  hiểu là vẫn được, và nhiều người cho rẳng dâng thần này mà không dâng thần kia sẽ gặp xui nên hiện tượng dâng tiền lẻ tràn lan vẫn vẫn xảy ra?
- Việc đến đền rồi dâng tiền để cầu xin các vị thần linh cũng chỉ là hoàn toàn mê tín và không đúng. Việc đến đền mà dâng tiền ông thần linh mà không dâng tiền ông thần linh kia rồi sợ bị trừng phạt thì ông thần linh đó cũng không xứng đáng để thờ.
Đặc điểm của thần linh là nóng giận sân si còn nhiều, phước kém hơn người cõi trời, vì cõi thần linh đứng dướicõi trời. Thần linh chính vì nóng giận, còn tham còn sinh nên khi không hài lòng hay trở lòng với người đến với mình.
Chính vì vậy người đến với thần linh vì không giải thoát được chính mình nên dễ tự làm điều xấu hại mình. Với Đạo Phật, người đến là để tự mình giảm bớt tham sân si để tự giảm bớt khổ. Đến với Đạo Phật là để học phương pháp để sống an lành và hạnh phúc cho mình chứ không phải để cầu xin và nuôi tham vọng.
Hãy dùng tiền công đức để làm từ thiện và nhận được cái tâm an lành
- Theo thầy, thay vì dùng tiền lẻ rải khắp nơi, người dân nếu khi muốn công đức thì phải làm thế nào cho đúng?
- Nếu có lòng công đức chỉ cần đặt tiền vào một nơi, đúng chỗ đặt hòm công đức mà trụ trì chùa đó đã đặt, vậy là đủ.Người đến chùa cúng là do cái tâm sẽ được cái nhân. Cứu giúp người ăn mày ăn xin cũng chỉ là cái nhân. Khi đó con người sẽ có cái tâm lành thiện và sẽ tự tạo nên được điều hạnh phúc đó là quả. Điều cốt lõi khi dâng tiền cho chùa cũng chính là như vậy, tất cả đều theo luật Nhân – Quả.
Nhiều người không hiểu được rằng khi dùng tiền cúng chùa Phật tam bảo sẽ chứng minh mà không cần ghi giấy ghi nhận hay bia công đức. Tôi cũng nghĩ rằng nếu có tâm muốn công đức cho nhà chùa, thay vì đổi tiền lẻ, hãy dùng luôn tiền đó làm việc thiện như đóng góp xây dựng nhà tình nghĩa, cho những trẻ em và người nghèo khó hơn là việc vừa mất tiền đổi và dâng khắp nơi mà không có ý nghĩa gì gây lãng phí.

- Xin cám ơn thầy !
 Theo Hoàng Nguyên bao VNNet.
bảo tâm

Chủ Nhật, 5 tháng 2, 2012

Từ 15/3/2012, áp dụng mức thu phí công chứng mới


Từ 15/3/2012, áp dụng mức thu phí công chứng mới
(eFinance Online) - Từ ngày 15/3/2012, mức thu phí công chứng sẽ được thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch 08/2012/TTLT-BTC-BTP do Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ban hành, thay thế Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008.
Theo đó, khi công chứng hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất (tính trên giá trị quyền sử dụng đất); Công chứng hợp đồng mua bán, tặng cho tài sản khác, góp vốn bằng tài sản khác (tính trên giá trị tài sản); Công chứng hợp đồng kinh tế, thương mại, đầu tư, kinh doanh (tính trên giá trị hợp đồng)... mức thu phí công chứng được quy định cụ thể như sau:

Số
TT
Giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch
Mức thu
(đồng/trường hợp)
1
Dưới 50 triệu đồng
50 nghìn
2
Từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng
100 nghìn
3
Từ trên 100 triệu đồng đến 1 tỷ đồng
0,1% giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch
4
Từ trên 1 tỷ đồng đến 3 tỷ đồng
01 triệu đồng + 0,06% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 01 tỷ đồng
5
Từ trên 3 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng
2,2 triệu đồng + 0,05% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 03 tỷ đồng
6
Từ trên 5 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng
3,2 triệu đồng + 0,04% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 05 tỷ đồng
7
Trên 10 tỷ đồng
5,2 triệu đồng + 0,03% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 10 tỷ đồng (mức thu tối đa không quá 10 triệu đồng/trường hợp)

Như vậy, Thông tư 08 quy định 7 mức thu thay vì quy định theo 4 mức (dưới 100 triệu; từ 100 triệu - 1 tỷ; từ trên 1 tỷ - 5 tỷ và trên 5 tỷ) như tại Thông tư 91/2008/TTLT-BTC-BTP trước đây.

Ngoài ra, Thông tư 08 cũng quy định mức thu phí mới đối với các việc công chứng hợp đồng thuê quyền sử dụng đất; thuê nhà ở; thuê, thuê lại tài sản (tính trên tổng số tiền thuê). Cụ thể:

Số
TT
Giá trị hợp đồng, giao dịch (tổng số tiền thuê)
Mức thu
(đồng/trường hợp)
1
Dưới 50 triệu đồng
40 nghìn
2
Từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng
80 nghìn
3
Từ trên 100 triệu đồng đến 1 tỷ đồng
0,08% giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch
4
Từ trên 1 tỷ đồng đến 3 tỷ đồng
800 nghìn đồng + 0,06% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 01 tỷ đồng
5
Từ trên 3 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng
2 triệu đồng + 0,05% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 03 tỷ đồng
6
Từ trên 5 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng
3 triệu đồng + 0,04% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 05 tỷ đồng
7
Từ trên 10 tỷ đồng
5 triệu đồng + 0,03% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 10 tỷ đồng (mức thu tối đa không quá 8 triệu đồng/trường hợp)

Cũng theo Thông tư này, mức thu phí công chứng được áp dụng thống nhất đối với Phòng công chứng và Văn phòng công chứng. Trường hợp đơn vị thu phí là Văn phòng công chứng thì mức thu phí quy định tại Thông tư này đã bao gồm thuế giá trị gia tăng (nếu có) theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng và các văn bản hướng dẫn thi hành...

Theo Tài chính điện tử
Số lượt đọc:169  - Cập nhật lần cuối: 06/02/2012 09:52:08

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2012

Người Việt chinh phục đại dương - Kỳ cuối: Cổ Lũy vượt sóng biển Tổ quốc

Thứ Bảy, 04/02/2012, 09:14 (GMT+7)

TT - Gần 20 chiếc tàu đánh bắt xa bờ đang được đóng cùng lúc. Chúng nằm thành hàng thẳng tắp bên bờ sông. Nhiều chiếc đã chuẩn bị hạ thủy. Có chiếc đang được dựng lên khung sườn nhìn xa như cánh chim hải âu chuẩn bị lao ra biển.
Con tàu này rồi sẽ ra khơi, từ Cổ Lũy - Ảnh: Q.V.
Dẫn tôi đi thăm xưởng đóng tàu Cổ Lũy danh tiếng của quê hương hải đội Hoàng Sa, truyền nhân làng nghề đóng tàu lịch sử này không giấu vẻ tự hào: “Những chiếc tàu tổ tiên chúng tôi đóng xa xưa đã chinh phục sóng gió Hoàng Sa, Trường Sa. Và những chiếc tàu chúng tôi đóng hôm nay tiếp tục thẳng tiến ra đó”.

Danh tiếng làng nghề
Cổ Lũy là một làng cổ ở xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi. Ra miền Trung, tôi tìm ngôi làng này không khó bởi hình như bất cứ ngư dân nào cũng biết. Từ lâu, Cổ Lũy đã nổi danh là làng đóng tàu cá lớn nhất Quảng Ngãi và thuộc hàng đầu cả nước. Các bậc cao niên kể rằng biến động thời cuộc, chiến tranh, ly loạn đã làm làng nghề thăng trầm, phải tạm dịch chuyển quanh vùng, nhưng sự truyền nối nghề nghiệp của tổ tiên trên Cổ Lũy chưa bao giờ đứt mạch. Và hầu như tất cả những người thợ ở đây đều là hậu duệ của các gia tộc ít nhất đã năm, mười đời nối nghiệp nghề đóng tàu.
Buổi chiều, tôi ghé nhà người thợ đóng tàu già Nguyễn Tấn Viện cũng là lúc ông vừa góp ý con cháu chuẩn bị đóng mới chiếc tàu đánh cá xa bờ cho ngư dân từ Vũng Tàu ra. Đó là chiếc tàu lớn sẽ hoạt động trên ngư trường Trường Sa, Hoàng Sa với chiều dài 22m, ngang 6m, cao 3,4m và có công suất máy 650 CV, chịu được sóng gió cấp 6, cấp 7... Tết này ông Viện 87 tuổi, là anh cả trong gia đình có ba anh em trai đều theo nghề đóng tàu mà người em út Nguyễn Tấn Trà nay cũng đã sang tuổi 77. Cẩn thận cho tôi xem những chiếc cưa, chiếc đục đóng tàu được gìn giữ như “gia bảo”, ông Viện kể mình học nghề cha chú, còn cha chú thì được ông nội, ông cố truyền lại. Nếu tính đến đời con cháu vẫn đang theo việc tổ tiên thì nhà ông chính xác đã bảy đời truyền nối giữ nghiệp. Còn nếu theo ký ức được người xưa truyền kể thì gia tộc này đã trên 10 đời sống chết cùng nghề đóng tàu.
Ông nội Nguyễn Tấn Dương của ông Viện mới gần 30 tuổi đã trở thành thợ cả tài hoa nhất, nhì Quảng Ngãi. Đến nỗi khi ông Dương mất sớm, bạn nghề ở lại tiếc khóc: “Tại Dương tài hoa quá nên ông trời khiến bạc mệnh”. Còn ông Nguyễn Tấn Xuân, cha ông Viện, từng tham gia các thương thuyền ngược xuôi Bắc - Nam. “Ông già tôi chở gạo, mắm ra Hải Phòng, Hà Nội bán, rồi đem tơ sợi, vải vóc vào xứ Sài Gòn. Mỗi chuyến ông đi dài hai, ba tháng tùy theo cơn gió thổi buồm và hàng hóa bán được nhanh hay chậm” - ông Viện hồi tưởng chuyện xưa.
“Tuy nhiên, làng này không chỉ nhà tôi mà nhiều gia tộc khác cũng gắn bó với cái cưa, cái đục, đóng tàu đi biển. Đời chúng tôi chính là những người đã chuyển giao từ đóng ghe buồm sang tàu máy đầu tiên ở biển miền Trung. Và con cháu chúng tôi là thế hệ đang tiếp bước đóng những chiếc tàu đánh bắt xa bờ lớn hiện nay”. Hồi tưởng quá khứ, ông Viện kể mình 18 tuổi đã thành thợ cả trong thập niên 1940 đầy biến động. Ông được cha chú dẫn vào nghề, tập tành đóng chính những chiếc ghe buồm truyền thống mà các hải đội Hoàng Sa đã từng sử dụng. Tuy nhiên, loại ghe thời kỳ này đã được đóng tăng cỡ để trở thành ghe bầu đi buôn đường dài.
Là một trong những người cuối cùng đã đóng nên chiếc ghe buồm lớn nhất Quảng Ngãi giữa thế kỷ 20, ông Viện tự hào kể từ xưa làng nghề xứ Quảng này đã nổi danh với những chiếc tàu bền chắc, vượt bão táp đại dương. Khoảng giữa thập niên 1960, ông Viện và bạn bè chính là lớp thợ đầu tiên chuyển từ đóng ghe buồm sang đóng tàu máy. Việc đóng vỏ tàu không khó, họ chỉ bỡ ngỡ ở phần ráp máy. Nhưng sau vài chục ngày học lại thợ từ Đà Nẵng, Tam Kỳ vào, ông Viện và 25 đồng nghiệp Cổ Lũy đã tự tách đóng riêng được chiếc tàu máy hoàn chỉnh. Đó là con tàu dài 17m, ngang 4m và cao hơn 2,5m, gắn máy 40 CV. Từ đây, làng đóng tàu Cổ Lũy rẽ sang bước ngoặt mới hiện đại hơn...
Trên đầu sóng ngọn gió
Làng đóng tàu Cổ Lũy sau nhiều lần phải dịch chuyển vì chiến tranh đã về thôn Cổ Lũy vào khoảng thập niên 1970. Đến năm 1977, làng chuyển sang mô hình hợp tác xã, trở thành một trong những làng nghề đầu tiên cả nước bước vào giai đoạn đóng tàu lớn đánh bắt xa bờ với tâm huyết rất nhiều của các bậc thợ cả cao niên như ông Viện, ông Trà, ông Lâm... Đến nay thì chính những người thợ ở đây cũng không thể nhớ từng đóng được bao nhiêu chiếc tàu vì tổng số đã lên đến hàng ngàn chiếc các loại. Hiện Cổ Lũy có 47 xã viên chính và 20 đội. Mỗi đội có một thợ cả, nhiều thợ chính và hơn 200 lao động để có thể đóng cùng lúc nhiều chiếc tàu. Trung bình mỗi năm hợp tác xã này đóng được 45-50 tàu xa bờ. Và những tên tuổi thợ cả hiện nay như Vương, Sinh, Bên, Cường, Huy, Sớt, Mạo, Bảo, Thành, Thanh, Nuôi... đã tự hào nối tiếp cha ông trở thành uy tín của làng nghề.
Hôm tôi ghé thăm đội trưởng thi công Nguyễn Tấn Huy cũng là lúc anh đang chỉ huy cùng đóng bốn chiếc tàu đánh bắt xa bờ và chuẩn bị hạ thủy hai chiếc cho ngư dân Bình Định, Quảng Ngãi. Chúng đều được trang bị máy có công suất lớn nhất của ngư dân miền Trung hiện nay với 450-650 CV, thậm chí có chiếc đã đến gần 1.000 CV. Là thế hệ con của anh em ông Nguyễn Tấn Viện, năm nay ông Huy 45 tuổi, đã từng đứng riêng chỉ huy đóng gần 40 chiếc tàu cho ngư dân các tỉnh miền Bắc, miền Trung, miền Nam đến đặt đóng. Tạm lơi tay việc, người thợ cả có vóc dáng chắc khỏe, kiên cường của ngư dân nhìn xa xăm ra biển và tâm sự: “Tôi cũng từng đi biển, từng treo mình trên đầu sóng ngọn gió Hoàng Sa, Trường Sa, nên khi vào nghề đóng tàu tôi rất thấm thía công việc mình làm. Những con tàu đó chở theo sinh mạng, ý chí đồng bào mình”.
Lặng nhìn người đàn ông biển cả đậm nét dạn dày sóng gió, tôi nghe lời tâm sự chân chất lòng ái quốc của anh bằng chính sự cố gắng đóng những con tàu thật tốt để xông pha sóng gió đại dương. Ông Huy kể mình theo học nghề cha bốn năm thì được lên làm thợ cả. Đường học khá nhanh vì hình như nghề này đã thấm vào dòng máu gia tộc. Lần đầu ông được tự tay dựng cây gỗ xỏ mũi tàu, việc quan trọng và ý nghĩa nhất trong đóng tàu, cha ông đã dặn dò: “Từ hôm nay, con đã chính thức nối nghiệp tổ tiên, đóng những con tàu xông pha bão táp. Dù bất cứ hoàn cảnh nào, con cũng phải giữ lấy tâm nghề, giữ lấy truyền thống của gia tộc, của làng Cổ Lũy và dân tộc để luôn kiên cường trước sóng gió đại dương”.
Phía trước người thợ cả, những con tàu Cổ Lũy vừa hạ thủy đang tiến thẳng ra biển cả của Tổ quốc...
Theo QUỐC VIỆT (TTO)
-----------------------------------------------
Tin bài liên quan:
-----------------------------------------------
 Đón đọc số tới: Số phận những kho báu Chăm ở Lâm Đồng
Có một ngày cách đây lâu lắm, ở vùng Phan Rang, Phan Rí có chiến tranh. Cả vùng rừng núi Tà In, Tà Năng cũng xôn xao thức dậy khi vua Chăm dẫn theo vô số quân lính và người nhà chạy qua lánh nạn. Sau khi làm nhà để đồ đạc và những hộp Klon, họ gửi lại tất cả cho đồng bào Churu rồi tiếp tục ra đi, về đâu không rõ.
Đó là những gì dân làng Sóp ở Lâm Đồng còn nhớ được về lịch sử những ngôi đền chứa báu vật Chăm nơi đây. Nó ở đâu? Có gì trong những ngôi đền này?

Thứ Sáu, 3 tháng 2, 2012

Người Việt chinh phục đại dương - Kỳ 7: Những người đi biển quả cảm

Thứ Sáu, 03/02/2012, 09:14 (GMT+7)

TT - Thế kỷ 19, nước Việt đã có các hải đội viễn dương thường xuyên vượt biển đến những quốc gia xa xôi. Mỗi hải trình ròng rã hàng tháng, xuyên qua các vùng biển nhiều hải tặc và dông bão hiểm nguy... Điều này chứng tỏ người Việt đã làm chủ được kỹ thuật đóng tàu biển và thông thạo kỹ thuật hàng hải. Nhưng tiếc thay, một giai đoạn lịch sử đầy biến động đã xóa nhòa dấu vết đội tàu kiêu hãnh của nước Việt.
Tàu viễn dương giống kiểu tàu Phấn Bằng từng chở nhiều người Việt xuất ngoại - Ảnh tư liệu
Phấn Bằng, Linh Phượng...
Những ngày ở Huế, tôi đã cố gắng tìm lại dấu vết các hải đội viễn dương một thời vang bóng. Nhà sưu tầm cổ vật Hồ Tấn Phan xứ kinh thành xưa tâm sự rằng ông cũng đã dành nhiều tâm huyết cho mục đích đó. Tiếc là trong khi chính sử lẫn tài liệu nước ngoài ghi chép khá kỹ thì dấu vết hiện vật lại mờ nhạt như sương khói lịch sử. “Tuổi đời cổ vật một, hai thế kỷ chỉ là chớp mắt của thời gian. Nhưng tại sao những hải đội đó lại không được lưu lại bảo tàng chiếc nào? Có lẽ khi đoàn quân lê dương Pháp đổ bộ lên nước Việt, triều đình nhà Nguyễn suy yếu đã làm đình trệ, tan rã nhiều công cuộc quốc gia. Trong đó có cả nền công nghiệp hàng hải tự hào một thời” - ông Hồ Tấn Phan ngậm ngùi.
Giở lại các bộ sử đã ố màu thời gian như Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ có thể tìm thấy hàng chục tên thuyền vượt biển của người Việt đã từng ngang dọc viễn dương như Phấn Bằng, Linh Phượng, An Dương, Vân Bằng, Thụy Long,Thanh Loan, Tiên Ly, Tường Hạc, Thanh Dương, Tĩnh Dương, Kim Ưng... Đây là loại thuyền lớn được bọc đồng chắc chắn để đi biển và nhiều chiếc trang bị đầy đủ vũ khí hải chiến. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chép rằng năm Minh Mạng thứ 18 (1837) đã có đội thuyền đồng nhiều dây 21 chiếc và cho đóng thêm chín thuyền nữa để đủ hạm đội 30 chiếc. Về sau nhiều chiếc được sửa chữa và tiếp tục đóng mới. Trong đó, những thuyền lớn nhất là Thụy Long, Linh Phượng, Thanh Loan, Phấn Bằng với chiều dài gần 10 trượng và rộng hơn 2 trượng, sâu gần 2 trượng (nhà Nguyễn thường tính chiều dài thuyền bằng thước mộc với 1 trượng = 10 thước, 1 thước = 0,425m).
Thời Nguyễn Ánh, các loại thuyền lớn này được kết hợp với kỹ thuật đóng tàu Pháp tại Sài Gòn. Sang triều Minh Mạng, công xưởng đóng tàu chính ở Huế, nhưng các địa phương Sài Gòn, Nghệ An, Thanh Hóa... vẫn tiếp tục được giao đóng và trưng dụng thợ thuyền, gỗ quý. Theo nghiên cứu của GS Nguyễn Thế Anh, ba lần Nguyễn Tri Phương xuất ngoại đến Indonesia thì hai lần đi bằng thuyền bọc đồng Thụy Long, một lần thuyền Phấn Bằng. Ngoài ra, những thuyền bọc đồng khác như Linh Phượng, Thanh Loan, Thanh Dương cũng được triều đình thường xuyên dùng làm phương tiện đi nước ngoài. Nhân vật lịch sử Cao Bá Quát cũng được nhắc từng xuất ngoại với Đào Trí Phú và trở về bình an. Lênh đênh hải trình, ông để lại cho hậu thế các bài thơ Hồng Mao hỏa thuyền ca và Dương phụ hành, kể lại những gì mắt thấy tai nghe về tàu hơi nước và phụ nữ phương Tây.
Đặc biệt, do hải tặc hoành hành, thuyền viễn dương công phái của nước Việt đều được trang bị vũ khí từ giáo mác, câu liêm đến các loại súng dài, pháo, ống phun lửa để sẵn sàng cận chiến và xa chiến. Nhiều chiếc thuyền đã trở thành chiến hạm làm nhiệm vụ tuần biển chống cướp biển mà chủ yếu là giặc Tàu Ô từ Trung Hoa. Chiếc thuyền bọc đồng Thanh Loan từng chở Đào Trí Phú đến Indonesia có lần tả xung hữu đột hải chiến với cùng lúc hơn 20 tàu giặc và đã bắn chìm hai chiếc, làm số còn lại phải khiếp sợ bỏ chạy. Chiếc Linh Phượng dưới sự điều khiển của quản vệ thủy sư Lê Tư và võ quan Tôn Thất Chu, Đặng Kim Giám cùng biệt đội lính thủy đã đánh bại cả đội tàu giặc dám trở lại vùng biển nước Việt. Đại Nam hội điển sự lệ kể rằng thường giặc biển nhìn thấy thuyền bọc đồng hạng lớn của triều đình đều bỏ chạy. Chính các trận hải chiến đã giúp triều đình rút kinh nghiệm cho đóng thêm loại thuyền nhỏ, nhẹ hơn thuyền bọc đồng để có lợi thế tốc độ truy kích giặc.
Khéo léo và dũng cảm
Thuyền trưởng Mỹ John White đến nước Việt năm 1819 nhiều lần miêu tả khả năng vận hành tuyệt vời của thủy thủ bản xứ: “Nhiều chiếc thuyền có đến chín tay chèo đi lên Sài Gòn đã vượt qua chúng tôi với một tốc độ đáng kinh ngạc”. Trong chuyến ngược ra miền Trung, John White cũng rất thú vị với kỹ thuật đi biển của ngư dân. Ông mô tả họ như nhảy múa trên sóng với những chiếc thuyền nhỏ mà không có giọt nước nào bắn vào thuyền. Phân tích lợi thế kinh doanh thương mại hàng hải phương Đông, John White trong nhãn quan thương nhân viễn dương cũng khẳng định miền Nam nước Việt có thể là nơi tốt nhất, nhờ những chỗ đậu tàu tuyệt vời với một lực lượng hải quân hùng hậu bảo vệ.
Trong lúc những nhà hàng hải khác như John Barrow không ít lần khen ngợi kỹ thuật đi biển của người Việt thì Michel Đức Chaigneau, con trai một người Pháp lấy vợ Việt, từng sống nhiều năm ở Huế dưới triều vua Gia Long và Minh Mạng, đã kể tỉ mỉ: “... Những người sử dụng mái chèo với sự khéo léo, tài tình đáng kinh ngạc. Ở một thuyền chiến thường có đến 70 lính thủy chèo thuyền, hiếm khi có người lơi tay chèo trong toàn thể”.Trong hồi ký, người Pháp lai Việt này dành nhiều nội dung kể hải quân nước Việt đầu thế kỷ 19 và khẳng định có ít nhất 700-800 thuyền với chiến hạm đủ cỡ, nhiều chiếc được trang bị đến 22 khẩu đại bác.
Đặc biệt, tài liệu thú vị khác do chính nhà nghiên cứu hàng hải Vũ Hữu San, cựu sĩ quan hải quân, sưu tầm. Từ nhật ký The eastern seas on voyages and adventures in Indian archipelago in 1832 của nhà hàng hải Goerge Windsor, Vũ Hữu San trích đoạn khi ông đang trên đường dẫn một thương thuyền đến Singapore: “Bão táp thật dữ dội ngoài biển khơi, thiếu chút nữa thì thương thuyền chúng tôi bị gãy đổ cả cột buồm. Thời tiết tiếp tục xấu như thế trong nhiều ngày. Vậy mà khi đang thận trọng dẫn tàu vào eo biển, chúng tôi chợt nhận ra sáu chiếc thuyền nhỏ của người Việt đang giương hết mọi cánh buồm, cứ thản nhiên như không, tiến thẳng tới trước. Mấy người mại bản Trung Hoa trên tàu chúng tôi đứng sững sờ ngắm các giàn buồm no gió một hồi... rồi sau khi nhận diện được, họ la lên một cách thán phục: “Lại mấy người Việt đấy, thật lì quá trời”. Tôi nghĩ (lời thuyền trưởng Goerge Windsor) mấy người Việt đó đang lèo lái các con thuyền bé nhỏ mà cách thức vận chuyển để vượt sóng lướt gió thật tài tình”.
Vũ Hữu San trích tiếp: “Tài ba của họ không thua kém bất cứ một thủy thủ đoàn hạng nhất nào ở châu Âu. Đoàn thuyền bé tí teo đó không một chiếc nào vượt quá 50 tấn, vậy mà những người đi biển này đè bẹp cả sóng gió biển Đông vào giữa mùa bão tố. Đã 20 năm rồi, rất ít thương thuyền nào của công ty chúng tôi dám thử hải hành trong mùa biển động như vậy. Thật thú vị nếu được quen biết những người Việt này”. Chính sử Việt cũng ghi nhận như Goerge Windsor mô tả khi triều Nguyễn đã cử nhiều lượt thuyền buồm xuất ngoại thành công. Thậm chí sử Việt khẳng định Tân Gia Ba (Singapore) là hải ngoại gần, như vậy thuyền Việt đã từng tiến xa hơn nữa trên các đại dương.
 Theo QUỐC VIỆT (TTO)
-----------------------------------------------
Tin bài liên quan:
-----------------------------------------------
Suốt hàng thế kỷ, làng nghề đóng tàu Cổ Lũy, với biết bao thế hệ thợ đã từng đóng các con tàu lịch sử vượt Hoàng Sa, Trường Sa, vẫn tồn tại và tiếp tục vươn ra biển đảo của Tổ quốc.
Kỳ cuối: Cổ Lũy vượt sóng biển Tổ quốc

Thứ Năm, 2 tháng 2, 2012

NEWLIFE - Thông tin Dự Án NewLife Thành Phố Mới Bình Dương




Newlife, Dự Án Newlife, Newlife thành phố mới bình dương - Địa Ốc Kim Oanh - www.diaockimoanh.com.vn
Vị trí
- Tọa lạc tại phường Hòa Lợi - Bến Cát - Bình Dương, NewLife có một vị trí tuyệt đẹp khi cách đường Vành Đai 4 (rộng 62m, 8 làn xe) kết nối Bình Dương, TPHCM, Đồng Nai, Long An, Bà Rịa – Vũng Tàu …chỉ 100m.
- Nằm giữa 2 Khu dân cư lớn: VSIP 2 và Mỹ Phước 3, cách Thành Phố Mới Bình Dương chỉ 5 phút xe máy. Đến Trường học, bệnh viện, ủy ban nhân dân, bưu điện, chợ … chỉ trong vòng 7 phút xe máy.
- Phía Bắc: Giáp đường A4 - N4, KDC hiện hữu
- Phía Nam: Giáp đường Vành Đai 4
- Phía Đông: Giáp đường A4 - N4, KDC hiện hữu
- Phía Tây: Giáp đường A4 - N4, đường đi DT741
Newlife, Dự Án Newlife, Newlife thành phố mới bình dương - Địa Ốc Kim Oanh www.diaockimoanh.com.vn


Sơ đồ vị trí Dự Án NewLife

Tiện ích - Không gian sống


Được xây dựng với ý tưởng mang đến cho các cư dân một phong cách sống hoàn toàn mới, NewLife hiện đại, trong lành và một môi trường xanh tươi mát. Thiên nhiên đan quyện vào cuộc sống con người, kết hợp hài hòa với các công trình kiến trúc hiện đại. Những con đường tản bộ rợp bóng cây, những thảm cỏ êm mượt và những vườn hoa khoe sắc, tiếp thêm nguồn năng lượng, cân bằng cuộc sống đem lại sự thanh thản, bình yên cho các cư dân NewLife.

Tại nơi đây, trong không gian sống thanh bình này, mọi nhu cầu sống của bạn và gia đình đều được đáp ứng một cách tốt nhất với những tiện ích đã đi vào hoạt động như Trường học, bệnh viện, chợ, Trung tâm hành chính…(Đại học Quốc tế Miền Đông, Trường THCS Hòa Lợi, Bệnh viện Đa khoa Hòa Lợi, Chợ, UBND…).
Không những thế, dự án NewLife còn liền kề các phố Thương mại, làng chuyên gia, khu sinh thái, khu nghỉ dưỡng…
Vì vậy, bạn còn có thể tận hưởng trọn vẹn những tiện ích hiện đại từ các dự án này.

NewLife không chỉ mang đến cho bạn một ngôi nhà mà trên hết là một tổ ấm, một môi trường sống chất lượng, an lành. Tại NewLife, bạn sẽ thực sự cảm nhận được sự khác biệt từ một không gian sống hiện đại hòa quyện cùng thiên nhiên, được tạo nên bởi những nhà thiết kế giàu kinh nghiệm, và tận hưởng trọn vẹn từng giây phút quý giá của cuộc sống.
Newlife, Dự Án Newlife, Newlife thành phố mới bình dương - Địa Ốc Kim Oanh www.diaockimoanh.com.vn
Nhà phố Newlife

Lợi thế đặc biệt của dự án

Đây là dự án tâm huyết của chủ đầu tư với mong muốn đem đến cho các gia đình trẻ cơ hội sở hữu một tổ ấm có pháp lý hoàn chỉnh, hạ tầng tốt, giao thông thuận lợi, tiện ích vượt trội với một mức giá cực tốt. Dự án đặc biệt thích hợp với các gia đình trẻ đang làm việc và sinh sống ở các công ty, khu công nghiệp tại Bình Dương và những cư dân từ các vùng miền khác muốn về đây lập nghiệp.

NewLife liền kề các tuyến giao thông trọng điểm, các khu dân cư, khu công nghiệp lớn … phù hợp để sinh sống, làm việc và tận hưởng cuộc sống nên giá trị Bất động sản nơi đây sẽ gia tăng hàng ngày. Chính vì thế, NewLife cũng thích hợp với các nhà đầu tư có số vốn nhỏ muốn để dành hoặc đầu tư sinh lợi một cách an toàn.
Newlife – Nơi một cuộc sống tiện nghi, hiện đại, đầy ắp niềm vui và hạnh phúc đang chờ đón bạn!
Newlife, Dự Án Newlife, Newlife thành phố mới bình dương - Địa Ốc Kim Oanh www.diaockimoanh.com.vn

Sơ đồ phân lô Dự Án NewLife


Click để xem Các Sản Phẩm : Dự Án Newlife


Mua Ban Nha Dat | Mua Ban Dat Nen | Tin Dia oc | Dat Binh Duong | Dat Dong Nai | Dat TP Ho Chi Minh | Dat Long An

Người Việt chinh phục đại dương - Kỳ 6: Người Việt xuất ngoại

Thứ Năm, 02/02/2012, 09:24 (GMT+7)

TT - Lặng nhìn sông Hương xuôi chảy, nhà nghiên cứu Huế Nguyễn Hữu Châu Phan trầm tư: “Chỉ với dân binh đảo Lý Sơn trên thuyền buồm nhỏ mà bao lớp người Việt đã dũng cảm vượt đại dương ra tiếp nối xác lập chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, chứng tỏ người Việt giỏi đi biển và đã đi được rất xa”.
Chân dung vua Minh Mạng trong sách của John Crawfurd
Người Việt hướng biển
Điều thú vị là trong quá trình sưu tầm tài liệu người nước ngoài về hoạt động biển và bảo vệ chủ quyền biển của người Việt, tôi đã tìm được nghiên cứu của GS Vu Hướng Đông, giám đốc Sở Nghiên cứu VN, Đại học Trịnh Châu, Trung Quốc. Trong tài liệu “Ý thức về biển của vua Minh Mạng” in ở kỷ yếu Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn tại hội thảo năm 2008 ở Thanh Hóa, tác giả Vu Hướng Đông đã rất đề cao tầm nhìn đại dương của triều Nguyễn.
“Sau vua Gia Long, vua Minh Mạng cũng tiếp tục đề xướng và ủng hộ sự nghiệp hàng hải ở hải ngoại, hầu như năm nào ông cũng cử đội thuyền triều đình hàng hải đến các nước Đông Nam Á, hải đảo ở vùng “Hạ Châu”. Ông từng cử người đến Minh Ca (Can - cốt - đa) ở miền đông Ấn Độ vùng “tiểu tây dương”, hình thành hiện tượng công cán hải ngoại quy mô lớn liên tục. Theo ghi chép của Đại Nam thực lục, từ năm Minh Mạng thứ ba (1822) đến năm Minh Mạng thứ 21 (1840), vua Minh Mạng ít nhất đã cử 30 đợt các quan văn võ, đi tổng cộng khoảng 60 con tàu/lượt bọc đồng lớn nhỏ như các tàu “Phấn Bằng”, “Thụy Long”, “Định Dương”, “Bình Ba”... đến vùng Hạ Châu và tiểu tây dương”. Chỉ một nghiên cứu ngắn, Vu Hướng Đông khẳng định người Việt đã vươn đến được các đại dương xa xôi hơn cả quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Đặc biệt, Vu Hướng Đông cũng cho rằng chương trình đưa người ra hải ngoại của vua Minh Mạng không nhằm mục đích thương buôn lấy lợi mà để mở mang hiểu biết, đặc biệt là học kỹ thuật hàng hải và hải chiến. Sâu xa hơn, triều Nguyễn quan tâm đến tương lai của đất nước trong thế sự nhiều lân quốc như Nhật, Trung Quốc đang biến động mạnh, phải chịu tác động nặng nề của các cường quốc hàng hải phương Tây. Minh Mạng ý thức được bất cập của hải quân triều Nguyễn nên yêu cầu đại thần ra nước ngoài mua tàu hơi nước và chiến pháp của hải quân Anh, Mỹ, với nhận xét sâu sắc: “Trong các nước phương Tây chỉ có Xích Mao và Ma Li Căn giỏi thủy chiến, tàu của họ hoặc thuận chiều gió hoặc ngược chiều gió đều rất nhanh nhẹn ... thật đáng để học tập”.
Nhà nghiên cứu người Trung Quốc này cũng đề cao vua Minh Mạng bằng chính trích đoạn trong sử Việt khi nhà vua hạ dụ cho quan Võ khố học tập chế tạo máy hơi nước: “Người làm vua phải học tập cái tốt của thiên hạ, loại xe này do người nước ngoài chế tạo ra, nó tinh xảo tiện việc sử dụng, học tập nó không sao cả. Nếu nói nó không đáng để học tập thì là thiển cận”.
(Theo tư liệu của Vũ Hữu San)
Sự thật lịch sử
Tầm nhìn hướng biển của triều Nguyễn cũng được các nhà nghiên cứu người Việt khẳng định. GS Nguyễn Thế Anh, sử gia có nhiều công trình sâu sắc về nền kinh tế - xã hội triều Nguyễn, đã nghiên cứu chương trình đưa người đi công vụ nước ngoài thế kỷ 19. Ông cho rằng triều Nguyễn, đặc biệt là Gia Long và Minh Mạng, không hề bịt mắt che tai trước thời sự thế giới mà trái lại rất quan tâm vì tin rằng sẽ ảnh hưởng tới quốc gia. Và mục đích chương trình cử người xuất ngoại là thăm dò dự định của các cường quốc châu Âu để sửa đổi chính sách ngoại giao.
Theo nghiên cứu của GS Nguyễn Thế Anh, chỉ giai đoạn 1835-1939, nhà Nguyễn đã cử ít nhất 21 chuyến thuyền vượt đại dương. Những người đã thực hiện nhiều chuyến đi như Nguyễn Tri Phương trong các năm 1836, 1837, 1838 trên các thuyền Thụy Long, Phấn Bằng; Đào Trí Phú đi năm 1838, 1839, 1840 trên thuyền Thanh Loan, Thụy Long; Lê Bá Tú đi năm 1837, 1838, 1839 trên các thuyền Phấn Bằng, An Dương, Linh Phượng... Ngoài ra, nhiều nhân vật từng xuất ngoại đến Singapore, Malaysia, Indonesia cũng được nhắc đến như Trần Hưng Hòa, Nguyễn Lương Huy, Vũ Văn Giải, Trần Danh Bưu, Nguyễn Văn Tố... Sau thăm dò thế sự, họ còn giao thương đường, ngà voi, thoi đồng và mua về vũ khí, kẽm, chì, diêm, vải vóc. Trong đó có cả việc trọng đại là mua tàu hơi nước về cho triều đình sử dụng và nghiên cứu đóng mới.
Đặc biệt, bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của triều Nguyễn còn ghi rõ chế độ triều đình thưởng, phạt để khuyến khích người đi biển. Minh Mạng năm thứ 19 phái hai chiếc thuyền Thụy Long, Phấn Bằng đi việc công ở Hạ Châu. Hành trình đi về đều an toàn. “Vậy phó vệ úy Phan Văn Mẫn ngồi cai quản thuyền Phấn Bằng được thưởng một lần kỷ lục... Từ nay phàm thuyền phái đi ngoại quốc, đi về đều được yên ổn, nếu là đường bể tương đối xa như địa phương tiểu tây dương thì viên ngồi cai quản được thưởng ba lần kỷ lục, như các địa phương Quảng Đông, Lữ Tống, Giang Lưu Ba (Indonesia) thì viên ngồi cai quản được thưởng hai lần kỷ lục, các địa phương tương đối gần như Tân Gia Ba (Singapore), đảo Tân Lang thì viên ngồi cai quản thưởng một lần kỷ lục để tỏ rõ có sự phân biệt việc khen thưởng, để khiến biết có sự khuyến khích”. Cũng năm này, Minh Mạng đã cảm thương thủy thủ đoàn thuyền Linh Phượng đi Giang Lưu Ba khó nhọc, xa ngày nên thưởng cho cả người bị mất trên đường đi, người bị bệnh và người về được.
Nhiều nhân vật vang danh hậu thế như Nguyễn Tri Phương, Bùi Viện, Cao Bá Quát, Phan Huy Chú đã ghi chép, làm thơ để lại nỗi niềm và điều tai nghe mắt thấy ở hải ngoại. Có lẽ là người Việt gặp tổng thống Mỹ sớm nhất từ thế kỷ 19, Bùi Viện đã thốt những lời thơ chí hùng: “... Cương thường thân gánh vác/sóng gió bước chơi vơi/phúc chúa trời yên ổn/dòng thu thẳng neo bơi”. Cảm khái nghĩa khí Bùi Viện, vua Tự Đức đã ban rằng: “Trẫm với ngươi tuy chưa có ơn nghĩa gì cả mà đã coi việc nước như việc nhà, không quản xa xôi, lo lắng. Quỷ thần tất cũng biết vậy”. Một quan chức không lớn như Bùi Viện mà được nhà vua cảm khái, tiễn đưa ra nước ngoài như vậy đã cho thấy tầm nhìn hướng biển của một triều đại cùng bao dự cảm, khát vọng cho dân tộc.
Từ ý thức biển của vua Minh Mạng, Vu Hướng Đông nhận xét: “21 năm trị vì của vua Minh Mạng cũng có thể được coi là đỉnh cao của nền hàng hải thuyền buồm và công cuộc xây dựng hải quân thời cổ đại VN. Ông ra sức đẩy mạnh sự nghiệp hàng hải của Chính phủ VN, khuyến khích đóng các loại tàu thuyền bền chắc, xây dựng thủy quân vững mạnh, hết sức coi trọng đến nền an ninh cõi biển và phòng thủ biển. Ông đã ban bố các quy chế như “Tuần dương chương trình”, “Tuần dương quy thức” và “Tuần dương xử phận lệ”... nhằm mục đích chống cướp biển, trạm dương và giữ gìn an ninh cho các loại tàu thuyền hoạt động”.
Theo QUỐC VIỆT (TTO)
--------------------------------------------
Tin bài liên quan:
--------------------------------------------
Vượt qua đại dương khét tiếng nhiều hải tặc và cuồng phong khắc nghiệt, người Việt xưa đã đi trên những chiếc thuyền gì và vận hành như thế nào?
Kỳ tới: Những người đi biển quả cảm